Nghệ sĩ Thanh Tú hát thành công rất nhiều tuồng trên sân khấu Thanh
Minh Thanh Nga, nhưng khi khán giả nhắc đến Thanh Tú thì hầu như người
ta chỉ còn nhớ đến vai Nhuận Điền của anh trong tuồng Bên Cầu Dệt Lụa,
đó là vai tuồng để lại một dấu ấn sâu đậm của nghệ sĩ Thanh Tú.
Nghệ sĩ Thanh Tú tên thật Mai Văn Tú, sanh năm 1939, đệ tử của
nhạc sĩ Út Trong, được thầy giới thiệu gia nhập đoàn hát Thanh Minh
Thanh Nga năm 1961.
Lúc đó nghệ sĩ Thành Được rời đoàn Thanh Minh Thanh Nga để thành
lập đoàn hát Út Bạch Lan - Thành Được nên các vai tuồng cũ của Thành
Được và những vai mới dự trù phóng vai cho Thành Được được giao cho
Thanh Tú đóng.
Nghệ sĩ Thanh Tú có giọng ca truyền cảm, thân thể cao ráo, vạm
vở, đẹp trai. Anh đóng cặp với Thanh Nga trong các vở tuồng Nữa Đời
Hương Phấn, Đôi Mắt Người Xưa, Ngã Rẻ Tâm Tình, Con Gái Chị Hằng, Đoạn
Tuyệt, Phấn Bụi Phù Hoa, Phu Tử Tùng Tử, Tấm Lòng Của Biển, Mưa Rừng,
Người Chồng Triệu Phú… Thanh Tú cũng thành công trong các vai kép võ
trong các tuồng Tàu như Trăng Rụng Bến Từ Châu, Võ Tắc Thiên, Khói Sóng
Tiêu Tương.
Năm 1963, nghệ sĩ Thanh Tú đoạt được huy chương vàng giải Thanh
Tâm qua vai Lưu Kiến Xuân trong tuồng Khói Sóng Tiêu Tương. Đây là vai
kép ba trong tuồng, sau hai vai Hoàng Hoa Lử và vai Chu Vĩnh Tuyên do
Hữu Phước và Việt Hùng thủ diễn. Hữu Phước và Việt Hùng không dự tranh
giải Thanh Tâm vì hai anh đã quá tuổi tranh giải. Thanh Tú vào vai kép
ba nhưng anh ca và diễn quá xuất sắc nên được chấm giải. Năm 1963. có
đến 6 nghệ sĩ được tặng thưởng huy chương vàng giải Thanh Tâm: ba nữ
nghệ sĩ Bạch Tuyết, Kim Loan (tức Mộng Tuyền), Trương Ánh Loan, và ba
nam nghệ sĩ Tấn Tài, Diệp Lang, Thanh Tú.
Thành công trên nhiều lãnh vực
Tên tuổi của Thanh Tú nổi bật trong hàng ngũ các kép trẻ, chẳng
những trên sân khấu cải lương mà Thanh Tú còn được mời đóng vai chánh
trong các phim của hãng Alpha phim và hãng Dạ Lý Hương phim. Đó là các
phim Trống Mái, Phận Má Hồng, Lan Và Điệp, Chiều Kỷ Niệm, Con Ma Nhà Họ
Hứa.
Trong phim Trống Mái, nghệ sĩ Thanh Tú thủ vai một người chài
lưới, ở trần, vai u thịt bắp, diễn xuất kéo lưới, phơi lưới, chèo ghe
thành thạo như một người thanh niên chuyên sống lao động miền biển, nên
Thanh Tú rất được khán giả phim ảnh ưa thích.
Đây là một thành tích rất đáng kể vì nghệ sĩ cải lương được mời
đóng phim, trong lãnh vực nghệ thuật phim ảnh, ít có nam nghệ sĩ cải
lương được thành công qua nhiều phim như Thanh Tú.
Năm 1969, nghệ sĩ Thanh Tú gia nhập gánh hát Ánh Chiêu Dương của
ông Bầu Nguyễn Thành Châu, đã hát qua các tuồng Nước Biển Mưa Nguồn, Vợ
và Tình, Sân Khấu Về Khuya… Anh có dịp theo nhóm các nghệ sĩ Năm Châu,
Phùng Há, Thanh Thanh Hoa đi trình diễn ở các nước Anh, Pháp, Algérie và
anh cũng có dịp hát hội chợ Thát Luổng ở xứ Lào.
Nghệ sĩ Thanh Tú và nữ nghệ sĩ Phương Liên đã giữ vững bảng hiệu
Dạ Lý Hương và góp phần thực hiện thành công phim ảnh của hãng Dạ Lý
Hương trong giai đoạn mà đoàn hát này vừa mất một cặp đào kép ăn khách
nhất của đoàn.
Thanh Tú đã hát qua các tuồng Bọt Biển 3, Người Dừng Chân Đêm
Mưa, Kẻ Sợ Tình, Đời là Một Chữ T, Gái Điếm Vợ Hiền, Người Chồng Triệu
Phú, Ông Huyện Đề,…
Trong thời gian nầy Thanh Tú và nữ nghệ sĩ Trang Bích Liễu yêu
nhau. Cuộc tình của đôi uyên ương Thanh Tú - Trang Bích Liễu gặp không
ít sóng gió trở ngại do gia đình của Trang Bích Liễu cản ngăn không cho
cô yêu anh chàng kép trẻ hào hoa Thanh Tú.
Trước khi Thanh Tú gặp và yêu Trang Bích Liễu, anh đã có ba lần
gảy đổ hạnh phúc gia đình. Một lần vợ của anh ở đường Nguyễn Biểu bị lạc
đạn mà chết. Hai người vợ kia thì từng người đến rồi chia tay với anh
khi họ gặp cuộc sống quá khó khăn, lúc đó Thanh Tú chưa được nổi danh và
chưa có một vị trí khả quan trên sân khấu cải lương.
Sau ba lần gảy đổ, có ba dòng con, Thanh Tú làm khổ cho cha mẹ
của anh phải chăm nuôi chúng, nghệ sĩ Thanh Tú ngán ngẩm con đường vợ
với con nên định tâm sẽ sống cu ky suốt đời.
Nhưng có lẽ do duyên trời định nên Thanh Tú và Trang Bích Liễu
gặp nhau, yêu nhau và phải vượt biết bao khó khăn trở ngại, họ mới trở
thành một đôi chồng vợ tâm đầu ý hợp suốt mấy mươi năm đồng cam cộng
khổ, và sống trọn vẹn với nghề hát.
Lúc đó Thanh Tú là một ngôi sao nổi tiếng trên sân khấu cải
lương và cả trên lãnh vực phim ảnh. Còn Trang Bích Liễu thì mới ra
trường Quốc Gia Âm Nhạc, cô là một diễn viên mới tập sự trong đoàn hát
Thúy Nga, đoàn hát Thế Hệ Dũng Thanh Lâm.
Khi Thanh Tú rời đoàn Thanh Minh Thanh Nga sang hát cho đoàn Tân
Hoa Lan của Út Bạch Lan thì Trang Bích Liễu mới gia nhập đoàn hát Thanh
Minh Thanh Nga.
Đến năm 1971, Thanh Tú và Trang Bích Liễu hát chung đoàn hát Dạ
Lý Hương, đóng tuồng cặp với nhau, có dịp chuyện trò tìm hiểu nhau,
Trang Bích Liễu mới thấy Thanh Tú là người đàn ông hiền lành, chân thật,
đáng yêu chớ không như dư luận đồn đãi vì những lần đổ vở hạnh phúc của
anh trước kia. Cô bèn dũng cảm cùng với Thanh Tú xây dựng hạnh phúc gia
đình dù chính mẹ của cô hết sức ngăn cản vì bà sợ anh chàng có ba đời
vợ kia sẽ hại con gái của bà.
Để bảo vệ hạnh phúc của mình, Thanh Tú và Trang Bích Liễu rời
đoàn hát Dạ Lý Hương, xuống tỉnh lập đoàn hát Thanh Tú - Trang Bích
Liễu, vừa gầy dựng sự nghiệp ca hát của mình vừa xây tổ hạnh phúc, khỏi
bị gia đình bên vợ kềm chế.
Đoàn hát Thanh Tú và Trang bích Liễu gồm có những nghệ sĩ tài
danh Thanh Hải, Hoàng Giang, Kim Giác, Kim Ngọc, hề Tư Rọm, hề Kim
Quang, hát những tuồng cũ nổi tiếng của Thanh Minh Thanh Nga và Dạ Lý
Hương nên rất ăn khách ở miền Tây vì các đoàn hát đại ban đó ít đi lưu
diễn, tuồng cũ của họ vẫn là tuồng mới đối với khán giả Hậu giang.
Gia đình của Trang Bích Liễu chấp nhận cuộc hôn nhơn của cô và
Thanh Tú sau nhiều năm Thanh Tú chứng tỏ mối tình chung thủy và sự thành
công trong sự nghiệp nghệ thuật của Thanh Tú và Trang Bích Liễu củng cố
thêm sự yêu đương bền vững của đôi nghệ sĩ tài hoa này.
Sau năm 1975, anh lập đoàn hát Kim Tinh, hát ở các tỉnh Hậu
Giang. Đến năm 1976, đoàn hát tư nhân Kim Tinh không được phép hoạt
động, anh giải tán đoàn hát, về hát cho các đoàn tập thể Thanh Minh,
Phước Chung hoặc đoàn hát nhà nước Trần Hữu Trang, Văn Công.
Anh nông dân Nhuận Điền
Khi hát cho đoàn Thanh Minh, Thanh Tú nổi danh trong vai Nhuận
Điền tuồng Bên Cầu Dệt Lụa qua lối diễn mộc mạc với giọng ca khoẻ khoắn,
quyến rũ. Có lẽ vì sau 1975, báo chí viết về kịch trường là của nhà
nước nên người ta nhắc đi nhắc lại nhiều các tuồng hát sau 1975 mà không
nói nhiều về các tuồng hay trước năm 1975 nên khán giả được nhắc và nhớ
đến vai anh nông dân chất phát Nhuận Điền.
Hơn bốn mươi năm theo đuổi trong nghề hát, vì muốn bảo vệ hạnh
phúc gia đình, Thanh Tú lập đoàn hát, ban đầu là để tránh xa sự khống
chế của gia đình bên vợ nhưng đồng thời anh và Trang Bích Liễu cũng muốn
dựng cho mình một sự nghiệp sân khấu.
Nhiều năm làm bầu gánh ở các miệt tỉnh, Thanh Tú đã bận rộn
không ít trong công việc quản lý đoàn hát, điều đó ảnh hưởng nhiều đến
nghề nghiệp ca diễn của anh.
Là một huy chương vàng giải Thanh Tâm đồng thời với hai huy
chương vàng Diệp Lang và Tấn Tài nhưng nghệ sĩ Thanh Tú không tiến bộ về
nghệ thuật ca hát bằng hai người bạn đó, chính vì nghề làm bầu gánh hát
đã hạn chế sự phát triển của nghề ca hát của một diễn viên thuần túy.
Năm 1978, Thanh Tú và Trang Bích Liễu có đứa con trai duy nhất tên là Mai Lê Thanh Tiến, không theo nghề hát của cha mẹ.
Thanh Tú và Trang Bích Liễu xa sân khấu, mở quán nhậu Bên Cầu
Dệt Lụa gần bến xe miền Tây, sống ổn định về kinh tế. Khi nhớ nghề, anh
chị ca hát trong quán nhậu để tiếp đải khách tri âm và khi có những dịp
hát chầu, hát gây quỷ từ thiện, Thanh Tú tham gia để góp phần làm việc
từ thiện và để đở nhớ nghề.
Năm 1971, nghệ sĩ Thanh Tú được ông Bầu Xuân mời ký hợp đồng để
về đóng chánh cặp với nữ nghệ sĩ Phượng Liên thay cho cặp Hùng Cường và
Bạch Tuyết rời đoàn để thành lập gánh hát Bạch Tuyết - Hùng Cường.
Source: maxreading
|
Nhận xét
Đăng nhận xét