Tên thật: Thái Thụy Phong
Ngày sinh: 1921
Thể loại: Việt Nam, Cải Lương
Quốc Gia: Việt Nam
Theo bài tường trình “Nghệ thuật Sân khấu Cải lương 80 năm” của
soạn giả Nguyễn Phương trên trang nhà của nhạc sư Trần Quang Hải, sân
khấu cải lương được hình thành từ năm 1917. Soạn giả viết tuồng đầu tiên
là Mạnh Tư Trương Duy Tảng. Từ năm 1920, soạn giả Mộc Quán Nguyễn Trọng
Quyền - vốn xuất thân là nghệ sĩ đoàn hát Tiều- đảm nhận viết tuồng cho
nhiều gánh hát lần lượt ra đời. Ông còn tận tình chỉ dạy nghệ thuật ca
hát cho nhiều nghệ sĩ về sau đều trở thành soạn giả, bầu gánh hoặc nghệ
sĩ trứ danh như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Ba Vân, Bảy Nhiêu… Ông mất
tại nhà thương Châu Đốc ngày 21-9-1953, thọ 76 tuổi. Qua 50 năm trong
nghề, với 85 tuồng cải lương, ông được tôn vinh là Hậu Tổ cải lương.
Nhiều năm trước khi ông mất, thực tế cho thấy sân khấu cải lương
đã quy tụ rất đông soạn giả được nhiều người ái mộ như Tư Trang, Tư
Chơi, Tư Thới, Năm Châu, Năm Nở, Năm Nghĩa, Bảy Cao, cô Bảy Nam, Nguyễn
Phương, Viễn Châu, Mộc Linh, Thu An, Nhị Kiều, Quy Sắc … Riêng Thái Thụy
Phong thoạt đầu gia nhập nghệ thuật sân khấu bằng một bản vọng cổ mà
sức hấp dẫn của nó không kém bài vọng cổ tiên phong Dạ Cổ Hoài Lang của
nhạc sư Cao Văn Lầu: Bản Sầu Vương Biên Ải (*).
Năm 1951, hãng dĩa Hoành Sơn tung ra bài vọng cổ này do Út Trà
Ôn trình bày làm xôn xao khắp miền Nam. Bằng lối văn bay bướm trữ tình,
qua một giọng ca mùi rệu thiên phú, Sầu Vương Biên Ải đã đi sâu vào từng
sông lạch, từng con người miệt đồng bằng Cửu Long Giang và nâng đệ nhứt
danh ca Út Trà Ôn lên ngôi “vua vọng cổ”.
Sau Út Trà Ôn, chính bài ca này cũng đã đưa nhiều nghệ sĩ tài tử
trở thành chuyên nghiệp, trong đó có hoàng đế dĩa nhựa Tấn Tài. “Hoàng
đế” đã có dịp kể lại cơ duyên vào nghề cải lương: “Tốt nghiệp tú tài,
tôi giã từ mái trường Long Xuyên về dạy tiểu học tại Núi Sập, Châu Đốc,
An Giang. Thời đó tôi muốn hoàn thành ý nguyện của gia đình là nối
nghiệp nhà giáo. ..Năm 1959, khi gánh hát Bướm Vàng về hát tại An Giang,
tôi được mời lên ca hai bài vọng cổ: Sầu vương biên ải và Viếng mộ
chinh phu. Thấy tôi ca được, ông bầu Tha của gánh Bướm Vàng mời tôi về
đoàn hát”.
Không chỉ giúp những người mơ làm nghệ sĩ cải lương thành đạt,
Sầu Vương Biên Ải còn mang đến cho những người say mê nó vài lợi ích…
khôn lường. Như trong tuyển tập Kiệt Tấn, truyện Những Cuộc Tình Không
Tới, tác giả kể chuyện thời học lớp đệ tam trường cao-tiểu Vĩnh Long đã
dùng Sầu Vương Biên Ải như một cơ hội để được sáp gần người yêu …của kẻ
khác: “Hiền còn trẻ, độ mười tám tuổi, nét mặt xinh xinh, nụ cười hiền
hậu, thân thể nẩy nở vừa phải và mê vọng cổ. Vậy là trúng tủ anh Hai Te,
người thợ mộc tài hoa của ba tôi. Hai người bèn bắt bồ, điều hết sức
hợp lý. Tối tối Hiền qua ngồi ở đống cây trước nhà tôi cắn hột dưa lắc
cắc và nghe anh Hai Te ca Sầu Vương Biên Ải: Nhìn trời hiu quạnh màn đêm
sương gió lạnh, chốn quê nhà thêm chạnh nỗi niềm riêng… Tôi cũng xáp vô
ngồi cạnh anh Hai Te để được nghe ca (phần phụ), được ngó lén Hiền và
được ngửi lén hương nước hoa thoang thoảng của nàng”.
Như Trần Bang Thạch viết trong bài Đem Theo Bài Ca Vọng Cổ tháng
3/2008: “Tuổi nhỏ của tôi là những trưa, những chiều treo lơ lững trên
nhánh sầu riêng, măng cụt của vườn nhà với những điệu Xàng Xê, Thủ Phong
Nguyệt, Đão Ngủ Cung… Đặc biệt là 6 câu vọng cổ nhịp 16 thằng bé miệt
vườn 10 tuổi là tôi cũng ca mùi rệu như ai để rót vào tai nhỏ bạn kẹp
tóc kế nhà. Biết nhỏ mít ướt, thằng bé cứ Mã Chiếm Sơn, Sầu Vương Biên
Ải, Tôn Tẩn Giả Điên, Đời Cô Lựu… mà gân cổ ca cho kẹp tóc chảy nước mắt
chơi”. Từ những hoài niệm đó, nhà văn lưu vong kết luận: “Có vọng cổ là
có hơi hướm của quê hương, có hồn dân tộc, có tình quê, tình nước. Nghe
những em bé năm bảy tuổi, nói tiếng Việt chưa thông mà xuống vọng cổ
thì cũng như nghe dòng suối ngọt quê hương đang chảy êm đềm trong những
con tim tuổi nhỏ”.
Tác giả của bài ca vọng cổ huyền thoại Sầu Vương Biên Ải mang
tên thật là Thái Văn Bì, cha là Võ Thạch Ngạn, mẹ là Thái Thị Bướm. Anh
sinh năm 1921 tại xã Long Phú quận Tân Châu tỉnh Châu Đốc. Chú ruột là
ông Võ An Hà, một đông y sĩ danh tiếng quê nhà. Anh mang họ Thái thay vì
họ Võ vì vào năm anh ra đời, song thân anh chưa lập hôn thú nên anh
phải lấy họ mẹ. Đứa em trai của anh cũng mang họ mẹ Thái Văn Nem. Theo
người chú của anh kể lại, sở dĩ thân phụ anh đặt tên con là Bì và Nem vì
ông rất thích lai rai vào mỗi buổi chiều với món nhậu nem bì. Mẹ và em
của anh mất trước khi anh nhập học tiểu học. Lên 8, 9 tuổi anh đã tỏ ra
rất mê cải lương. Chỗ nào có tập họp đờn ca cổ nhạc là có anh. Không
đoàn hát nào về hát tại đình làng Long Phú mà anh vắng mặt… Dứt bậc tiểu
học với thành tích xuất sắc, anh được nhập trung học Phan Thanh Giản
Cần Thơ. Đến năm thứ ba anh bị đuổi về vì tham dự biểu tình chống Pháp.
Anh tự học thêm mấy năm nữa ở nhà. Thời gian đó giúp anh đọc gần hết tủ
sách truyện Tây Tàu của nhà văn tiền phong láng giềng Nguyễn Chánh Sắt.
Năm 1940, anh lần mò sang Nam Vang làm nghề gõ đầu trẻ. Năm năm sau, anh
ngược về Sài Gòn tiếp tục dạy học tư môt thời gian rồi lên tận vùng
biên giới làm thư ký cho một đồn điền…
Không ai biết anh học cổ nhạc với ai, vào thời điểm nào nhưng từ
năm 1950, anh bắt đầu sáng tác với bút hiệu Hương Huyền. Năm 1951, hảng
dĩa Hoành Sơn tung ra thị trường bản vọng cổ Sầu Vương Biên Ải và …hốt
bạc. Thành công bất ngờ giúp anh bỏ đồn điền, hăng hái bước hẳn vào bộ
môn cải lương và chọn một bút hiệu khác với hy vọng cuộc đời tốt đẹp
hơn: Thái Thụy Phong. Thụy Phong, theo anh giải thích, là ngọn gió mát
lành. Các hảng dĩa săn đón, mời mọc nhưng anh vẫn giữ tư thế độc lập.
Với mỗi soạn phẩm hoàn tất, anh giao cho một hãng dĩa khác nhau như hảng
dĩa Thăng Long, Nam Phương, Lam Sơn, Asia, Việt Hải, Hoành Sơn, Hồng
Hoa. Trong vòng 4 năm, từ năm 1952 đến năm 1956, ngoài một số bản vọng
cổ mang đến thanh danh, anh còn sáng tác tám tuồng hát là Muôn Dặm Tìm
Chồng, Bạch Viên Tôn Các, Sầu Vương Đáy Mộ, Non Tình Biển Hẹn, Đường Ra
Ải Bắc, Lá Huyết Thư, Ngày Về Cố Quận và Trường Hận, tuồng nào cũng đặc
sắc được thính giả nồng nhiệt tán thưởng. Mỗi lần có tuồng mới, thân phụ
anh lên Sài Gòn mang về Tân Châu mở máy hát mỗi đêm. Thời đó hiếm người
sắm nổi máy hát dĩa nên đêm nào cũng có vài chục bà con láng giềng đến
ngồi đầy trước sân, cả trên lề đường.
Do sáng tác quá hăng, sức khỏe anh suy sụp. Anh tạm ngưng viết
vào lúc sân khấu cải lương nở rộ. Nhiều đoàn hát mới ra khai trương.
Đoàn Phụng Hảo lần lượt tách thành 4 đoàn. Đoàn Kim Chung còn đi xa hơn
từ KC 1 đến KC 6,7. Nhiều đoàn khác tăng cường nghệ sĩ biến thành đại
ban như Thanh Minh, Hoa Sen, Năm Châu, Dạ Lý Hương, Hương mùa Thu,Thúy
Nga, Út Bạch Lan-Thành Được…Riêng tại thủ đô Sài Gòn đã có đến 20 rạp
hát dành riêng cho cải lương.
Sau khi hồi phục, anh đầu quân cho hảng dĩa Asia phụ trách phần
kỹ thuật ghi âm và đồng thời làm cố vấn kỹ thuật cho vài đoàn hát. Trong
thời gian này anh hợp soạn với Hà Huy Hà vở Con Đò Thủ Thiêm và năm
1958 cho trình diễn trên sân khấu Thúy Nga. Sau vở này, hứng thú với
tiểu thuyết tình cảm xã hội Người Vợ Hai Lần Cưới của An Khê ,bất chấp
lời chọc quê của ký giả Nguyễn Ang Ca là Người Vợ Chưa Từng Tắm, anh
phóng tác thành tuồng sân khấu Hai Chuyến Xe Hoa và được đại ban Thanh
Minh-Thanh Nga nổi danh nhất thời đó trình diễn. Vở tuồng thành công
ngoài sức tưởng tượng. Đó cũng là lần đầu một vở cải lương hát trên sân
khấu được thu vào dĩa bán ra thị trường. Vở tuồng cũng được các đài địa
phương cho phát thanh hàng tháng. Thậm chí ngày nay nó còn được đưa lên
mạng lưới toàn cầu để mọi người thưởng thức(**). Trong một bút ký đăng
trên Thất Sơn Châu Đốc, nhà văn Lương Thư Trung có nhắc đến tuồng hát
này: “…vở tuồng xã hội Hai Chuyến Xe Hoa được trình diễn trên sân khấu
Thanh-Minh Thanh-Nga nổi tiếng khắp Sài Gòn và các tỉnh miền Nam vào năm
1962. Tuồng cải lương ăn khách đến độ đạo diễn Hoàng Anh Tuấn, cũng là
một thi sĩ, người đã thành công khi đạo diễn cuốn phim nổi tiếng Xa Lộ
Không Đèn, đã thương lượng với soạn giả Thái Thụy Phong để dựng thành
phim Hai Chuyến Xe Hoa và trình chiếu tại thủ đô Sài Gòn và khắp miền
Nam vào những năm trong hai thập niên 60-70 ai ai cũng đều biết tiếng”.
Ký giả Nguyễn Ang Ca nói thêm chi tiết: “Tại rạp Hưng Đạo, dù trời mưa,
đoàn TMTN đã diễn vở tuồng nầy trọn 19 đêm, đợt sau ba tuần lễ mà vẫn
đông khách…”. (Thời đó, đoàn hát thường 2, 3 đêm phải thay tuồng mới).
Sau vở tuồng này thì thời cuộc đổi thay. Chính quyền tổng thống
Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Rồi đảo chánh liên miên, giới nghiêm liên miên.
Khán giả sút giảm, các đoàn cải lương diễn cầm hơi. Soạn giả, diễn
viên, nhân công được trả lương theo thu nhập… Riêng với Thái Thụy Phong,
dù vẫn được hảng dĩa Hồng Hoa (Asia) trọng dụng, vẫn được trả lương đầy
đủ nhưng vẫn không đủ trang trải cho đàn con bảy đứa. Nội tướng của anh
bắt đầu đi làm. Đứa con gái lớn cũng nghỉ học vào vào làm sở Bưu điện
trung ương. Buồn phiền, anh hút thuốc liên miên và nhuốm bịnh lao… Năm
1966, anh soạn xong vở tuồng Bơ Vơ và được đoàn Thanh Minh-Thanh Nga
long trọng khai trương nhưng vẫn không đủ hấp lực kéo khán giả đến rạp.
Rồi trận Tết Mậu Thân khiến hai đứa con trai lớn lần lượt nhập ngũ. Nỗi
lo ngày đêm làm căn bệnh anh nặng thêm. Anh đau đớn, chán nản và mệt
nhoài…
Chiều ngày 17 tháng 9 năm 1968, anh trút hơi thở cuối cùng trên chiếc xích lô chở anh từ sở làm về nhà….
Ngày hôm sau, các báo ở Sài Gòn đồng loạt loan tin buồn. Những
ngày kế tiếp là vô số lời phân ưu, những bài tưởng niệm của bạn bè đồng
nghiệp, của ký giả nghệ sĩ. Ký giả Cẩm Thi của báo Trắng Đen ra ngày
23-9-1968 bày tỏ: “Soạn giả Thái Thụy Phong là con người điềm đạm, ít
nói, chân thật và sẵn sàng tiến dẫn soạn giả, ca sĩ mới nên được nhiều
người mến chuộng. Trên 10 năm hợp tác với hảng dĩa Asia, Thái Thụy Phong
là người tận tụy cần mẫn. Một số đông danh ca, nghệ sĩ hữu danh, ca sĩ
mới nổi đều mang nặng ân tình với Thái Thụy Phong”.Một trong những đức
tính vừa nêu được ký giả Hoàng Kim mô tả trên trang nhà của nữ ca sĩ
Khánh Ly qua bài kể về tình bạn tuyệt vời của đôi soạn giả tài danh HÀ
TRIỀU - HOA PHƯỢNG : “Năm 1956, đất Sài Gòn xuất hiện một chàng trẻ mới
22 tuổi, vốn là dân kháng chiến chống Pháp ở Rạch Giá, chiều chiều ngơ
ngác đi dọc đường Trần Hưng Đạo nhìn phố thị xa hoa… Chợt một bữa, anh
chạm mặt Sơn Nam cũng đang thả bộ dạo chơi… Thế là Sơn Nam kéo chàng
trai về nhà của thi sĩ Kiên Giang, vốn là "tụ điểm" của anh em văn nghệ
sĩ... Trong số đó, có một chàng cũng trẻ măng, cùng tị nạn từ Long Xuyên
lên…Nhà thơ Kiên Giang cười cười giới thiệu "người Rạch Giá" với “người
Long Xuyên”… và ông gạ thêm "hai đứa bây thử viết tuồng cải lương
coi!". Hai chàng trẻ …nghe vậy ừ luôn. Rủ nhau cùng ngồi nghĩ ra cốt
truyện, chi tiết, rồi mỗi người viết một màn, xong ráp lại, chỉnh sửa.
Tức cười, tác phẩm hoàn thành mà người sáng tác không tìm nổi tựa đề
cũng như bút hiệu cho mình. Lơn tơn qua rạp Thành Chung, gặp soạn giả
Thái Thụy Phong, ông này đặt giùm 3 chữ Vì Quê Hương”.
Soạn giả Hà Huy Hà trên báo Tia Sáng ra ngày 22-23/9/1968 viết
về kỷ niệm hoạt động cùng người bạn đồng nghiệp: “Trên sân khấu Thúy
Nga, tôi và soạn giả Thái Thụy Phong là đôi bạn đồng hành, thường sát
cánh nhau từ lúc sân khấu này vừa được tượng hình cho đến khi chánh thức
khai trương. .. Lúc ấy Thành Được còn là một kép cay của sân khấu Vĩnh
Viễn. Bích Sơn là một nghệ sĩ Bắc di cư mới vào Nam. Chúng tôi quyết tâm
làm một cuộc thực nghiệm đường lối “trẻ trung hóa sân khấu với sự hiện
diện của anh kép trẻ và một cô đào mới…Ít ai biết thiện chí và ý thức
cầu tiến của Thái Thụy Phong trong vai trò phụ tá giám đốc kỹ thuật của
đoàn Thúy Nga”. Soạn giả Hà Huy Hà cũng tiết lộ, sau lần giúp Hà
Triều-Hoa Phượng đề tựa Vì Quê Hương cho vở hát đầu tiên, Thái Thụy
Phong còn giúp đỡ hai soạn giả trẻ trung này ở vở hát kế tiếp: “Soạn giả
Thái Thụy Phong đã góp ý để điều chỉnh vấn đề kỹ thuật trong vở Khi Hoa
Anh Đào Nở. Tôi và Thái Thụy Phong đã dồn nhiều nổ lực để thực hiện
tuồng hát này.”
Source: zing
|
Nhận xét
Đăng nhận xét