Ông Bầu Long ( Bắc di cư )
Ông Bầu Long ( Bắc
di cư ) và
đại công ty Kim Chung.
Trước khi lý giải sự thành công của ông bầu Trần Viết Long, công ty gánh
hát Kim Chung, tôi (Nguyễn Phương) nghĩ là nên bàn qua một chút về trào lưu văn
học nghệ thuật từ những thập niên 40, 50. Lúc đó có những cuộc tranh luận gay
go và kéo dài nhiều năm giữa hai quan niệm nghệ thuật. Một bên cho là Nghệ Thuật vị Nghệ Thuật và một bên cho
là Nghệ Thuật vị Nhân Sinh.
Về ngành nghệ thuật sân khấu, đại biểu cho quan niệm Nghệ Thuật vị Nghệ
Thuật là soạn giả kiêm đạo diễn Nguyễn Thành Châu và đoàn hát Việt Kịch Năm
Châu là nơi để ông Năm Châu thể hiện quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật dưới
tiêu đề: sân khấu Thật và Đẹp.
Ông Nguyễn Thành Châu được xem như là đầu não của quan điểm “ “Nghệ Thuật
Vị Nghệ Thuật”; các gánh hát theo ông Năm Châu trong trường phái này có các
đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga, đoàn Kim Thanh – Út Trà Ôn, đoàn Hương Mùa Thu,
đoàn Kim Thoa, đoàn Dạ Lý Hương, đoàn Út Bạch Lan – Thành Được, đoàn Bạch Tuyết
Hùng Cường, đoàn Tiếng Hát Dân tộc. Ủng hộ quan điểm của Năm Châu có các ký giả
kịch trường Trần Tấn Quốc, Nguyễn Ang Ca, Ngọc Linh, Sĩ Trung, Phong Vân, Hà
Huy Hà, Hoài Ngọc, Lê Hiền, Tô Yến Châu, anh bảy Đức Hiền, Tam Mộc …
Theo quan điểm Nghệ Thuật vị Nghệ Thuật thì khi hát tuồng Tây như tuồng Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ , nghệ sĩ phải
ăn mặc y phục như các ngự lâm pháo thủ của Pháp trong thời kỳ Phục Hưng của nước
Pháp, các ngự lâm pháo thủ phải đấu kiếm theo kiểu đánh kiếm escrime chớ không
phải theo cách đấu kiếm của Tàu. Lời văn đối thoại ngắn, gọn, rõ ràng theo
phong cách trí thức chớ không như một số tuồng kiếm hiệp do các nghệ sĩ chuyên
diễn cương trên sân khấu các gánh hát nhỏ ở tỉnh Hậu Giang trong thời kỳ đó. Để
thực hiện một sân khấu “ Thực và Đẹp “ , ông Năm Châu đã nhờ Nguyễn Phương và
anh Hai Lang ( tài xế xe của đoàn hát, anh ruột của quái kiệt Ba Vân) đến rạp
hát bóng Tây Đô - CầnThơ, mượn máy chiếu phim 35 ly( máy nhỏ) và phim Les trois
mousquetaires của Pháp chiếu cho nghệ sĩ
đoàn Việt Kịch Năm Châu xem để học các động tác, cách chào hỏi, cho họa sĩ và
người may phục trang xem để theo các kiểu mẫu y phục mà may phục trang và họa
sĩ vẻ cảnh trí sân khấu khi đoàn Việt Kịch Năm Châu hát tuồng Bằng Hữu Binh Nhung của Nguyễn Thành
Châu.
Khi hát tuồng Hàm Lệ Thái Tử nước Đan Mạch, ông Năm
Châu cũng kiếm tài liệu, báo chí, hình vẻ và chiếu phim Hamlet cho nghệ sĩ, họa
sĩ và người may phục trang xem về hình ảnh những nhân vật trong truyện Hamlet
mà bắt chước theo thực hiện cảnh trí, y trang, các cách diễn xuất của nhân vật
thuộc thời đại của Hamlet…Đoàn Thanh Minh Thanh Nga khi hát tuồng Gió Ngược Chiều do ông Năm Châu đạo diễn
thì cũng mô phỏng theo y trang, cảnh trí, động tác của những nhân vật trong
phim Ruy Blas… Tóm lại để thực hiện quan điểm Thật và Đẹp, các đoàn hát theo
trường phái này phải chịu tốn kém nhiều trong việc mua sắm cảnh trí và phục
trang. Nghệ sĩ phải học hỏi và luyện tập nhiều mới thực hiện được những suất diễn
có nghệ thuật và tương đối đúng với tính cách nhân vật và thời điểm lịch sử của
cốt truyện tuồng.
Ông bầu Trần Viết Long đoàn hát Kim Chung thì quan niệm một cách đơn giản
là nghệ thuật theo kiểu nào cũng được, miễn là hát giúp vui cho khán giả, khán
giả thích là được rồi vì người ta đến xem hát là để giải trí chớ không phải đến
xem hát để học hỏi cái gì đó. Muốn gọi ông theo trường phái Nghệ Thuật vị Nhân
Sinh cũng được mà gọi ông là một nhà kinh doanh nghệ thuật thì ông cũng chấp nhận
luôn.
Trên đây là hai quan niệm khác nhau của những ông bà bầu, những người
đang lèo lái các gánh hát đại ban ở miền Nam trong các thập niên 50, 60, 70.
Ông Bầu Trần Viết Long - Một Nhà
Kinh Doanh Nghệ Thuật
.
Năm 1954, cuộc chiến tranh Việt Pháp kết thúc, đất nước bị chia đôi,
đoàn cải lương Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt di cư vào Nam, đã đem lại một sinh
khí mới cho mọi hoạt động của ngành nghệ thuật sân khấu ở Miền Nam.
Trước đây, các đoàn cải lương miền Nam cạnh tranh với nhau bằng cách
chăm sóc cho tuồng tích của đoàn mình hơn đoàn bạn, diễn viên của đoàn mình
thinh sắc lưỡng toàn hơn, hoặc tranh cảnh, y trang đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Đó là
phương thức kinh doanh hơn thua nhau vì nghệ thuật hát ca và quảng cáo, không
tính toán xa hơn những gì đạt được trước mắt.
Đoàn Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt của ông Bầu Trần Viết Long di cư vào
Nam, đổi bảng hiệu là đoàn cải lương Kim Chung, đã góp phần thay đổi phương thức
kinh doanh của các đoàn hát cải lương ở miền Nam, đồng thời góp phần kích thích
cho sự cạnh tranh và phát triển của ngành nghệ thuật sân khấu ở miền Nam.
Đoàn Kim Chung: Một hiện tượng
mới trong ngành sân khấu cải lương.
Cuối năm 1955, Đoàn cải lương Kim Chung mướn rạp Trung Ương Hí Viện tức
rạp Aristo, đường Lê Lai làm nơi để tập tuồng tích, vẽ tranh cảnh và ổn định
nơi ăn chốn ở cho các nghệ sĩ đã theo bầu Long di cư vào Nam. Tôi đi theo hai
anh ký giả Nguyễn Ang Ca và Tô Yến Châu nhân dịp hai anh đến phỏng vấn Bầu
Long, nữ nghệ sĩ Kim Chung và một vài nghệ sĩ tên tuổi khác của đoàn cải lương
Bắc di cư ( dân Sàigòn lúc bấy giơ đã gọi đoàn cải lương Kim Chung.)
Nhận xét đầu tiên của hai anh Nguyễn Ang Ca và Tô Yến Châu là trong một
hai năm đầu ở Sàigòn, Đoàn cải lương Kim Chung sẽ sống mạnh, sau đó có lẽ sẽ phải
giải tán, chớ khó mà tồn tại hay phát triển như các đoàn cải lương trong Nam.
Thấy tôi có vẻ không tin sự nhận định của hai anh, anh Nguyễn Ang Ca nói rõ
thêm: Lúc nảy mình coi anh em nghệ sĩ tập tuồng, họ ca cổ nhạc, ca vọng cổ bằng
giọng Bắc, khán giả trong Nam nhứt định là nghe không thích bằng nghe nghệ sĩ
trong Nam ca. Lại còn cách diễn tuồng , cách nói lối, ngâm thơ, mọi phương thức
ca, ngâm, diễn xuất, đều có vẻ giống hát chèo, hát Tiều, hát Quảng, chớ không
giống cải lương miền Nam. Dân di cư và dân miền Bắc ở trong Nam lâu cũng rất ít
ở Sàigòn. Số mới di cư thì chánh phủ đã chở họ đi định cư ở Hố Nai, Gia Kiệm,
Cái Sắn, Cà Mau, Định Quán. . .Vì vậy, tôi cho là trong hai năm đầu, có thể họ
sẽ đến coi đoàn Kim Chung hát để gợi nhớ lại quê hương miền Bắc, nơi chôn nhao
cắt rún cũ, nay đã xa vời. Khi yên nơi yên chỗ, họ còn phải lo việc làm ăn sinh
sống, niềm nhớ quê hương miền Bắc sẽ nguôi ngoai, họ không cần thiết về Sigon
coi đoàn Kim Chung hát mà họ sẽ coi tất cả các đoàn hát nào đến diễn ngay nơi họ
định cư.
Anh Tô Yến Châu nói thêm: Cải
lương là sản phẩm nghệ thuật của miền Nam. Phải hát giọng Nam vì khán giả đại
đa số người miền Nam .
Trong khi hai anh ký giả phỏng vấn ông Trần Viết Long, tôi ra phòng bán
vé, xin tờ chương trình quảng cáo. Vở tuồng khai trương của Kim Chung tựa:
"Trăng giãi đêm sương ".
Tôi chú ý tiêu đề: Thi, Ca, Vũ, Nhạc, Kịch
dưới bảng hiệu Đoàn cải lương Kim Chung, và tên các diễn viên: Kim Chung
(chuyên đào võ), Bích Hợp (đệ nhất đào thương), Huỳnh Thái( đệ nhất danh ca miền
Bắc) Hề Phúc Lai( Trạng Hề ) Hề Tư Vững, Hề Ba Hội, Tư Bữu, Ngọc Toàn, Quang Hữu,
Thúy Liễu, Thu Hương, Thu Nhi, Ái Lan, Thành Hội, Khánh Hợi, Ánh Tuyết, .. Soạn
giả Vạn Lý, Ngọc Văn và Ngọc Huyền Quân tức bầu Long, chồng cô Kim Chung.
Vài ký giả kịch trường và soạn giả các đoàn đang hát tại Sàigòn đến xem đoàn
Kim Chung đêm hát khai trương bảng hiệu. Khán giả đại đa số là dân mới di cư
vào Nam. Tuồng Trăng Giãi Đêm Sương, cốt
chuyện giống như chuyện Hồng Lâu Mộng, y trang tranh cảnh như tuồng Tàu. Về lối
hát, có chỗ ngâm như kiểu ngâm Kiều, có chỗ nói thơ theo điệu sa mạc, và vọng cổ
thì các bạn đồng nghiệp miền Bắc ca cũng hay nhưng giọng lai Bắc. Hề Phúc Lai
diễu thì cứ kêu : Ối chu choa, mẹt ơi...
nhại giọng Nam một cách ngượng nghịu, lâu lâu gọi Huỳnh Thái bằng Bố thằng cu tí...và theo lối hề diểu
hình, phùng mang, trợn mắt, uốn mình, bẻ tay bẻ chân. Khán giả di cư chắc sẽ
hài lòng vì lối hát cải lương Bắc, ngâm nga nhiều hơn ca cổ, phù hợp với cảm quan
quen thuộc của họ.
Khi về Đoàn Thanh Minh, bà bầu Thơ, ông Năm Nghĩa hỏi chúng tôi nhận xét
về đoàn cải lương Kim Chung như thế nào? Anh Nguyễn Ang Ca và Tô Yến Châu, (
lúc đó có tuồng trên sân khấu Thanh Minh với bút hiệu Ngọc Huyền Lan và Tô Châu)
nhắc lại nhận xét đã nói với tôi ban sáng. Tôi nghĩ rằng chánh phủ nhứt định sẽ
tài trợ cho đoàn hát di cư cũng như đã tài trợ cho đồng bào di cư đến các vùng
đất mới như Cái Sắn, Năm Căn, Gia Kiệm, Hố Nai.. . Bầu Long sẽ có thời gian và điều kiện để làm
cho đoàn Kim Chung có phương thức hoạt động phù hợp với khán giả miền Nam hơn,
nhưng Bầu Long sẽ làm gì thì tôi không tiên đoán được.
Điều kỳ lạ xảy ra: Đoàn Kim Chung hát liên tục trong hơn bốn mươi xuất
hát tại rạp Aristo với vở tuồng duy nhất: Trăng
Giãi Đêm Sương.
Một hiện tượng mới trong giới sân khấu cải lương. Từ trước đến nay, các
đoàn hát hát mỗi đêm mỗi đổi tuồng và hát ở một rạp hát thông thường là một tuần
lễ là phải dọn đi rạp hát khác thì mới thu hút được đông đảo khán giả. Kim
Chung đã ở rạp Aristo gần một tháng rưỡi với một tuồng duy nhứt, và theo như
đánh giá của ký giả kịch trường thì tuồng Trăng
Giãi Đêm Sương không hay hơn các tuồng bình thường của sân khấu miền Nam.
Giới chủ Bầu, các Ký giả kịch
trường và soạn giả đổ xô đi nghiên cứu hiện tượng Kim Chung. Bà Bầu Thơ, ông
Năm Nghĩa đãi một tiệc long trọng ngay tại tư gia đường Trần Hưng Đạo để chúng
tôi gặp nhau, bàn luận. Chúng tôi so sánh, phân tích từng điểm một : Rạp hát,
Nghệ sĩ, Tuồng tích, Quảng cáo, Thành phần khán giả...vân..vân...
Rạp hát Aristo còn có cái tên là Trung Ương Hí Viện, mặt hướng về đường
Lê Lai. Số lượng ghế khán giả nhiều hơn rạp Thành Xương, nhưng rạp Aristo ở vào
một vị trí không thuận lợi: một bên là ga xe lửa bít bùng, một bên là con đường
cùng, vì vậy ít có đoàn hát về đây. Các đoàn Nam Phi, Phụng Hảo, Năm Châu khi kẹt
rạp, cũng tạm về rạp Aristo hát, số thu không cao. Ký giả Trần Tấn Quốc và ông
Tòa Thiết mượn làm nơi hát bội của Hội Khuyến Lệ Cổ Ca, với các danh tài hát bội
đương thời như: Minh Tơ, Mười Vàng, Năm Đồ, Mười Sự, Năm Còn, Tám Văn, Châu Kỷ
. . Sau các cuộc hát bội gây qũy, rạp Aristo nhiều khi, bỏ trống trong nhiều tuần
lễ.
Do phân tích về vị trí của rạp hát, chúng tôi đồng ý với nhau là rạp
Aristo của đoàn Kim Chung không phải là một yếu tố thu hút khán giả. So với
Thành Xương, Nguyễn Văn Hảo, Moderne thì rạp Aristo thất thế hơn.
So sánh về lực lượng nghệ sĩ thì danh ca vọng cổ Huỳnh Thái không hơn
Vua Vọng cổ Út Trà Ôn, không hơn Năm Nghĩa, Bảy Cao, Thanh Tao, Ba Khuê...
Kim Chung, Bích Hợp so với Phùng Há, Kim Anh, Kim Chưởng, Kim Cúc, Kim
Lan, Út Bạch Lan...cũng không có điểm nào hơn. Về vai Hề so ra thua hề Ba Vân,
Kim Quang, Tư Rọm, hề Châu Hí...
Nói chung về nghệ sĩ, tuồng tích, quảng cáo, vị trí rạp hát, Kim Chung
không hơn các đoàn hát miền Nam, vậy tại sao Kim Chung có thể hát ở một rạp và
diễn một tuồng liên tục lâu được như vậy?
Nhiều đêm chúng tôi đến xem đoàn Kim Chung, nhận thấy khán giả không
đông, có khi chỉ nửa rạp hay hơn một phần ba khán giả trong rạp, Kim Chung vẫn
mở màn hát. Khi quảng cáo vở tuồng Trăng
Giãi Đêm Sương hát được hơn hai mươi suất thì những đêm kế tiếp khán giả có
tăng lên chút ít vì số người hiếu kỳ đến xem, muốn biết tại sao tuồng hát hát được
lâu như vậy.
Cuối cùng chúng tôi hiểu được là các đoàn hát miền Nam quản lý đoàn hát
về mặt kinh tế thua hẳn phương thức quản lý của bầu Long đoàn Kim Chung.
Theo ký giả Hoài Ngọc, bạn thân của ông Phạm Thọ Minh, bộ óc quan trọng
trong bộ tham mưu của Bầu Long thì Kim Chung chủ trương Kinh Doanh Nghệ Thuật, nghĩa là những gì liên quan tới nghệ thuật được
coi là hàng thứ yếu, kinh doanh với lợi
nhuận cao là trên hết. Do chủ trương đó, Tăng Thu giảm Chi là nguyên lý chỉ đạo mọi hoạt động của đoàn Kim
Chung.
Dưới đây là những con số so sánh do anh Hoài Ngọc cho biết khi anh ngưng
cộng tác với đoàn Kim Chung để về làm việc với đoàn Kim Thanh - Út Trà Ôn:
Về rạp hát, Bầu Long mướn rạp
Aristo, một rạp từ lâu không có đoàn về hát nên chủ rạp cho mướn với giá rẻ. Chủ
rạp chỉ chia 10% tiền bán vé mỗi xuất hát; tiền điện, tiền mướn làm vệ sinh rạp
hát do Đoàn Kim Chung trả. Nếu so với giá tiền mướn rạp Hưng Đạo, Nguyễn Văn Hảo
hay Thành Xương thì tiền mướn rạp Aristo quá rẻ, nhất là khi hát thưa khách, tiền
rạp trả ít, đông khách thì cứ theo 10% mà trả. Vì vậy, dù có nhiều hay ít khán
giả, đoàn Kim Chung vẫn mở màn hát. Nghệ sĩ đoàn Kim Chung lãnh lương tháng, được
chia một chỗ dưới hầm sân khấu để ở. Do đó, đoàn hát trả tiền mướn rạp để hát
và để có nơi cư ngụ cho nhân viên của đoàn.
Về tiền bản quyền, bầu Long mua đứt bản
quyền tuồng cũ, mỗi tuồng chỉ gía có
5.000 đồng, ông Long cho người trong đoàn Kim Chung sửa tựa, sửa bài ca hay thêm,
bớt nhân vật rồi cho diễn như một vở mới. Trong khi đó các đoàn cải lương miền
Nam trả tiền bản quyền cho tác giả là 6% mỗi xuất hát.
Hát thường trực tại một rạp hát
thì hàng tuần khỏi phải tốn tiền chi phí cho việc mướn xe tải để chuyên chở
đào, kép, y trang tranh cảnh đến địa điểm mới; khỏi tốn tiền mướn phòng ngủ,
nhà ở cho toàn đoàn; khỏi vẽ bảng quảng cáo lớn trước rạp hát( mỗi bảng quảng
cáo lớn treo trước rạp hát tốn ít nhứt 5000 đồng ). Ngoài ra tiền thù lao cho
diễn viên phụ, công nhân sân khấu, tính theo lương tháng cũng rẻ hơn khi trả
lương theo từng xuất hát.
Về y trang, đoàn hát Kim Chung không may sắm y trang cho từng tuồng
như các đoàn Thanh Minh, Kim Chưởng,…mà dùng y trang tuồng Tàu ( mũ, mãng, áo
bào, áo giáp có thêu mắt gà) để hát những tuồng Tàu, tuồng thi ca diễm huyền
như Trăng Giải Đêm Sương, cho những
nhân vật nhà giàu mà tuồng không khẳng định địa danh chuyện tuồng là ở nước nào
cả. Một số trang phục tuồng kiếm hiệp, tuồng Tây để cho các nhân vật như tráng
sĩ, kiếm sĩ, mặc, một loại áo quần nhà nghèo cho dân nghèo mặc (nhân vật Việt
nam thì không cột túm óng quần, không cột giây lưng bản lớn bên ngoài. Nhân vật
tuồng Tàu thì cũng mặc áo quần đó, có giây lưng bản lớn, cột túm óng quần, có
khăn choàng hay mũ mão đội trên đầu) Tóm lại y trang, tranh cảnh được mang từ
khi di cư vô Nam, dùng cho nhiều tuồng chớ không nhất thiết được thiết kế cho
riêng một tuồng nào cả.
Khi có một cặp đào kép trẻ mới
ký hợp đồng, ông bầu Long cho san sẻ những nghệ sĩ, cảnh trí, phông màn ở đoàn
cũ để lập thêm đoàn mới. Y trang cũng được đưa qua đoàn mới, đoàn cũ chỉ mua sắm
thêm chút ít.
Trong khi đó thì các đoàn
hát của miền Nam, mỗi tuồng mỗi sắm y trang tranh cảnh cho phù hợp với tuồng.
Khi hết hát tuồng đó thì cảnh trí y trang được chở về cất trong nhà kho của
đoàn. Khi tuồng đó lâu quá không được hát lại thì thợ mộc phá cảnh cũ để lấy vải
bố và cây đóng cho cảnh trí tuồng khác. Một sự lãng phí liên tục, từ năm này đến
năm kia khiến cho chi tiêu của bầu gánh hát miền Nam cứ tăng lên theo cấp số
nhân, trong lúc đó thì cảnh trí, y trang của đoàn Kim Chung được chia ra cho
đoàn 1, đoàn 2, đoàn 3, đoàn 4 dùng, vừa ít chi tiêu mà số thu được nhân lên
theo con số nẩy nở của các đoàn Kim Chung.
Từ ngày khai trương đến mấy
tháng sau, nhờ chi phí nhẹ, Đoàn Kim Chung tương đối ổn định nhưng rồi càng lúc
càng mất khán giả, thậm chí có đêm không hát được. Bộ tham mưu Kim Chung, đứng
đầu là ông Phạm Thọ Minh triệu tập cuộc họp bên bàn đèn, với Hoài Ngọc và Trần
Hà, (các ông này cũng hút thuốc phiện như Phạm Thọ Minh) để vấn kế. Trần Hà
nói: Dân Sàigòn chịu chơi, dám chi tiền
mua vui và ăn nhậu, nhưng của nào thì tiền nấy, nếu của dở quá, cho họ cũng không
thèm. Các anh chị từ miền Bắc mới vào, họ đến xem là để nếm của lạ cho biết, chớ
nếu lâu ngày mà dở hơn của nhà thì họ
đâu có chịu mất tiền lãng nhách như vậy .
Hoài Ngọc nói: Ca vọng
cổ bằng giọng Bắc, nghe kỳ lắm. Chửi cha không bằng pha tiếng, anh biết câu tục
ngữ đó mà.
Phạm Thọ Minh lim dim, kéo hết
điếu nầy sang điếu khác, khi đã rồi, ông ta nói: Kim Chung sẽ hát giọng Sàigòn, sẽ chịu chơi hết mình với dân
Sàigòn. Chúng tôi kinh doanh nghệ thuật,
nhứt định không để cho bị khánh tận đâu.
Chủ Trương Mua Đào Bán Kép, Sân Khấu Sàigòn xáo trộn
không ngừng :
Ông Bầu Long trong dịp cúng
tổ cải lương tháng 8 năm 58, mời Quái kiệt Ba Vân ký hợp đồng làm diễn viên
kiêm đạo diễn cho đoàn Kim Chung, với giá lương 1000 đồng một xuất hát. Ông còn
nói thêm: Muốn cho đoàn cải lương Bắc hát giọng Nam thì chỉ có một cách là từ nay, đoàn Kim Chung sẽ ký hợp đồng với diễn
viên tài danh miền Nam. Tuy là đoàn Kim Chung miền Bắc, nhưng từ nay sẽ gồm
đại đa số diễn viên miền Nam. Như vậy hát giọng Nam sẽ nhanh hơn là bắt các diễn
viên như Huỳnh Thái, Kim Chung, Bích Hợp, Quang Hữu học nói và học ca giọng Nam
Bầu Long nói với một giọng
như cợt đùa, nhưng các ông bà Bầu các đoàn cải lương Sàigòn đều ngầm hiểu như một
lời tuyên chiến. Ba Vân tuy là một danh hề, nhưng hát hội và hát trên sân khấu
Việt Kịch Năm Châu, lương của anh chưa tới 500 đồng xuất. Vậy mà Bầu Long trả
lương gấp đôi. Contrat chỉ ký một năm, Ba Vân không thố lộ ra, chỉ nói úp mở là
rất hậu hĩ!
Tiếp theo đó, các tay thân cận
của Bầu Long (các ký giả kịch trường lảnh lương của Kim Chung) lân la vô hậu
trường các đoàn hát Thanh Minh, Kim Chưởng, Kim Thanh, Hương Mùa
Thu,...v.v...nói chuyện thì thầm với các danh ca, kép chánh, kép cạnh, làm như
là bầu Long đang ngấm nghé muốn mời anh kép nầy, cô đào nọ về cộng tác với Kim
Chung. Các đoàn hát miền Nam muốn giữ đào kép cho bảng hiệu của mình phải tăng
lương, tăng tiền ký contrat cho các danh ca, các đào chánh. Mặt khác, Đoàn phải
nghiên cứu sao cho tuồng tích hay hơn, tranh cảnh lạ mắt hơn, y trang đẹp hơn,
hầu giữ số khán giả trung thành với bảng
hiệu của mình.
Trong quá trình cạnh tranh
nghệ thuật và phương thức kinh doanh, các đoàn phải bám vào sở trường ưu thế của
đoàn mình, phát triển theo chiều hướng đó để giữ khán giả và diễn viên ở lại với
bảng hiệu của mình. Ví dụ: Đoàn Thanh Minh với sở trường tuồng dã sử và xã hội.
Đoàn Kim Chưởng với sở trường tuồng hương xa và kiếm hiệp, đấu chưởng. Đoàn Hoa
Sen với các tuồng chiến tranh bắn súng, Đoàn Phụng Hảo chuyên hát tuồng
Tàu...Các danh ca vọng cổ đều được tăng lương, tăng tiền contrat, chi phí của
các gánh hát cải lương miền Nam cứ theo đà này mà ngày một nặng nề hơn lên.
Bầu Long Kim Chung tung tin
làm cho các bầu gánh khác lầm tưởng là Kim Chung sẽ mua chuộc kép Hữu Phước,
Thành Được, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết...v.v..., nhưng kỳ thật đó chỉ
là một đòn hỏa mù, che dấu hành tung thật của Bầu Long. Đoàn Kim Chung tăng cường dàn đào kép miền Nam, để hát giọng Nam, nhắm
vào các danh ca trẻ vừa được tuyển chọn trong các cuộc thi ca vọng cổ do các
nhà Báo tổ chức ở rạp Quốc Thanh hay Nguyễn Văn Hảo. Những danh ca này tuổi
từ 13 đến 16, chưa hề biết hát trên sân khấu, chỉ có giọng tốt và ca 6 câu vọng
cổ gây được tiếng vang trong các cuộc thi ca vọng cổ. Vì là những giọng ca trẻ,
chưa biết hát nên số tiền giao kèo thật thấp, tiền lương cũng không cao, nhưng
qua cách chọn tuồng, cách tổ chức hát, cách quảng cáo của Đoàn Kim Chung, các bạn
trẻ đó ngày một phát triển tài nghệ, cuộc sống được nâng cao nhưng chính các em
đó đã làm giàu cho Bầu Long không biết bao nhiêu mà kể. Dưới đây là những giọng
ca trẻ được bầu Long ký contrat sau các cuộc thi ca vọng cổ ở rạp Quốc Thanh ;
Minh Cảnh khôi nguyên vọng cổ 16 tuổi, được ký
contrat 30.000 hát trong hai năm trong đoàn Kim Chung. (năm 1960)
Minh Vưng (sau này đổi tên
Minh Vương) khôi nguyên vọng cổ, 15 tuổi, học trò nhạc sĩ Bảy Trạch, ký contrat
30.000 đồng (1961)
Mỹ Châu ký contrat 60.000 đồng
khi cô mới có 13 tuổi (sanh ngày 21/8/1950, hát trên SK Kim Chung năm 1963.)
Bích Hạnh, học trò của nhạc
sĩ Bảy Trạch (sanh 03/12/1953, ký contrat 20.000 hát trên SK Kim Chung 1, năm 1965, lúc cô 12 tuổi.)
Thanh Kim Huệ, sinh năm
14/11/1955, hát trên SK Kim Chung 2, năm 1970, 15 tuổi, contrat 50.000 đồng
trong hai năm.
Còn nhiều nữa như Lệ Thủy,
Ánh Hồng, Minh Phụng, Quốc Trầm, Phương Bình...v.v... khi hợp tác với Kim Chung
cũng đều trên lứa tuổi kể trên.
Như vậy rõ ràng là Bầu Long tung tin sẽ mua chuộc đào
kép đang nổi danh, nhưng thực sự ông chỉ nhắm các mầm non, dễ đào tạo, ít tốn
kém và những diễn viên đó trong những năm 70, đều trở thành những tài danh sân khấu
miền Nam, kế thừa nghề nghiệp của các bậc đàn anh, đàn chị như Hùng Cường, Bạch
Tuyết, Thanh Nga, Hữu Phước, Thành Được, Út Bạch Lan. . .
Bầu Long mỗi lần được một cặp đào kép trẻ là lập thành
một đoàn mới. Tranh cảnh thì đoàn này chia xẻ, trao đổi với đoàn kia, diễn viên
luân chuyển thành ra lúc nào đoàn hát Kim Chung cũng có nét mới, người mới, tuồng
mới. Có 7 đoàn mang danh Kim Chung 1,
KC2, KC3, KC4, KC5, KC6, KC7,. KC7 có đi hát ở Lào, Thái Lan và Pháp Quốc năm
1969 .
Tuồng tích thì tuồng nào nhắm
ăn khách được thì hát, không nệ hà là thể loại nào.
Diễn viên Đoàn Kim Chung: (tôi kể tên những diễn viên từng diễn trên sân khấu
Kim Chung, có người sau này thay đổi sân khấu, có người hát cho Kim Chung tới
năm 75 như Mỹ Châu, Bích Hạnh )
Minh Cảnh, Lệ Thủy, Minh Phụng,
Mỹ Châu, Bích Hạnh, Diệu Hiền, Minh Vương, Tấn Tài, Hùng Cường, Thanh Hải, Út
Trà Ôn, Ba Vân, Ngọc Bích, Phương Bình, Thanh Kim Huệ, Thanh Điền, Thanh Tuấn,
Ánh Hồng, Kiều Tiên, Như Mai Kim Hoàng, Quốc Trầm, Tô Kiều Lan, Chí Tâm, Hoài
Thanh, Minh Sang, Thanh Nguyệt, Tô Kim Hồng, Út Hiền, Út Hậu, Ngọc Ẩn, Phương
Dung, Hề Văn Hường, Hề Sa, Hề Chơn Tâm, Kim Chung, Bích Hợp, Thúy Liểu, Thúy Hiệu,
Túy Định, Quang Hữu, Ánh Tuyết, Hề Phúc Lai.
Huỳnh Thái cùng các anh Trần
Hà, Ba Hội, Tư Vững tách ra lập đoàn Thăng Long - Huỳnh Thái năm 68. Chỉ hai
năm sau, đoàn Thăng Long Huỳnh Thái giải tán.
Tuồng tích Đoàn Kim Chung:
Soạn giả thường trực: Vạn Lý, Ngọc Văn, Ngọc Huyền Quân (Tức bầu Long) Trần Hà,
Hoài Ngọc, Thanh Cao, Vân An.
Kịch Bản: Trăng Giãi Đêm Sương, Bên Cầu Vọng Thê, Đắc
Kỷ Trụ Vương, Tình chàng ý thiếp, Phạm Công Cúc Hoa, Phủ Kiều Trường Hận, Người
mang sông núi, Chuyến đò thương, Mắt em là bể oan cừu, Lương Sơn Bá Chúc Anh
Đài, Mạnh Lệ Quân, Tâm Sự loài Chim Biển, Kiếm Sĩ Người Dơi, Tình thiên thu, Nữ Hiệp ăn mày, Mười
tám năm trường hận, Nhất Kiếm Bá Vương, Lời thơ trên tuyết, Suối mơ rền pháo cưới,
Giai nhân bên suối bạc, Người về trên bão tuyết, Hắc Sa Thôn Huyết Hận, Nắng
thu về ngỏ trúc, Quỷ kiến sầu, Mây chiều Phú Sĩ, Khói cỏ quê hương, Áo vũ cơ
hàn. . . . .
Năm 1975, ông bà bầu Kim
Chung có kinh nghiệm năm1954 khi CS tiếp thu Hà Nội, đã một lần di cư từ Bắc vào
Nam, thì lần này miền Nam thất thủ, ông bà bỏ lại tất cả sản nghiệp, di cư ra
ngoại quốc. Có một lúc tôi nghe nói ông ở Pháp, (nhân đọc báo của ký giả Trần
Trung Quân), nhưng khi tôi qua Pháp thì nghe nói ông bà ở Montréal. Về Montréal
hỏi mãi mà cũng không được một lần hội ngộ. Coi như tôi không có cơ duyên với
hai ông bà, vì ngay trong nước, khi cùng chung hoạt động ngành sân khấu, tôi chỉ
làm việc cho anh Năm Châu, bà bầu Thơ, ông bầu Xuân, chớ không có dịp cộng tác
với Kim Chung.
Tuy nhiên tôi vẫn hằng theo
dõi hoạt động của đoàn Kim Chung vì về mặt kinh doanh, Kim Chung đúng là bậc thầy,
lập một kỷ lục là có cả một Công Ty Kim Chung, 7 đoàn hát mà trong lịch sử cải
lương miền Nam, chưa có ông bà bầu nào làm được.
Tôi hy vọng bài viết này góp
phần ghi công lao của ông bà Trần Viết Long trong trang sử cải lương. Chỉ nhìn
số diễn viên trẻ được đào luyện từ sân khấu Kim Chung, ngày nay đều là những
nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng, chứng tỏ công lao không nhỏ của ông bà bầu Long và tập
đoàn Kim Chung. Công lao đó rất là đáng tôn đáng kính.
Soạn giả Nguyễn Phương ( 96 tuổi ) 2018.
Nhận xét
Đăng nhận xét