Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ
(TITC) - Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ (còn gọi là Đờn ca tài tử) là
loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của Việt Nam, được hình thành và
phát triển từ cuối thế kỉ 19. Đây là sinh hoạt văn hóa tinh thần không
thể thiếu của người dân Nam bộ trong các dịp lễ hội, tết, giỗ, cưới,
sinh nhật, họp mặt,… Lễ giỗ Tổ được tổ chức vào ngày 12/8 âm lịch hàng
năm.
Đờn ca tài tử là nghệ thuật của đờn (đàn) và ca, do những người bình
dân Nam bộ sáng tác dựa trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình, nhạc dân
gian miền Trung và Nam để hát chơi sau những giờ lao động. Các bài bản
của Đờn ca tài tử được cải biên liên tục từ 72 bài nhạc cổ và đặc biệt
là từ 20 bài gốc (bài Tổ) cho 4 điệu (hơi).
Nhạc cụ được sử dụng trong Đờn ca tài tử gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn
cò, đàn tỳ bà, đàn tam (hoặc đàn sến, đàn độc huyền), sáo, tiêu, song
loan... Từ khoảng năm 1930 có thêm đàn ghita phím lõm, violon, ghita
Hawaii (đàn hạ uy cầm). Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc
bộ và gia đình, ít khi nhạc công độc tấu, mà thường song tấu, tam tấu,
hòa tấu. Dàn nhạc thường cùng ngồi trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu
diễn với phong cách thảnh thơi, lãng đãng, dựa trên khung bài bản cố
định gọi là “lòng bản”. Khán giả có thể cùng tham gia thực hành, bình
luận và sáng tạo.
Người thực hành Đờn ca tài tử gồm: người dạy đàn (thầy Đờn), người đặt
lời (thầy Tuồng), người dạy ca (thầy Ca), người đờn (Danh cầm) và người
ca (Danh ca).
Theo kết quả kiểm kê năm 2011, Nghệ thuật Đờn ca tài tử hiện đang được
thực hành tại hơn 2.500 câu lạc bộ, nhóm, gia đình ở 21 tỉnh, thành phố
miền Nam.
Ngày 5/12/2013, tại phiên họp lần thứ 8 của Ủy ban Liên chính phủ về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (UNESCO) tổ chức tại Baku
(Azerbaijan), Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ đã được công nhận là Di
sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Phạm Phương
Nhận xét
Đăng nhận xét