Lịch sử cải lương

Lịch sử cải lương 1
Tuấn Giang

Giới thiệu toàn văn Lịch sử cải lương nhiều kỳ của Tuấn Giang như một tài liệu quý.



Hà Nội 9 – 2007

Lời cáo lỗi



Đã nhiều năm nghiên cứu sân khấu cải lương, đọc nhiều viết nhiều về nghệ thuật cải lương, tác giả đã có những công trình:

1. Ca nhạc và sân khấu cải lương

2. Thẩm mỹ nghệ thuật cải lương

3. Nghệ thuật cải lương

4. Nguồn gốc ca nhạc tài tử cải lương

5. Nghệ thuật cải lương Hoa Mai quyển I – II

6. Nghệ sĩ Lệ Thanh - Ngọc Dư

7. Xã hội hoá sân khấu cải lương

8. Sân khấu cải lương thời kỳ đổi mới

9. Lịch sử cải lương.



Tuy viết nhiều, càng viết càng thấy sai xót, tác giả muốn có ngay cuốn sách Lịch sử cải lương gửi tới bạn đọc, nên không thể cầu toàn. Một cuốn lịch sử cải lương theo chiều dài gần 100 năm, chỉ có thời gian viết trong hai tháng, phải xử lý nhiều nguồn tư liệu và các phương pháp nghiên cứu chắc có nhiều sai xót. Những sai xót đầu tiên là tên các nghệ sĩ sắp xếp lộn xộn, hoặc bỏ xót, sai thứ hai những tên đoàn, thời gian hoạt động... Những thiếu xót ấy, chân thành xin lỗi các nghệ sĩ, diễn viên và bạn đọc tha thứ. Tác giả chỉ mong muốn có cuốn sách lịch sử đầu tiên để mọi người suy ngẫm những thành quả to lớn của sân khấu cải lương.



Lịch sử luôn là những khám phá, phát hiện, sửa chữa, bổ xung, tác giả mong rằng sau cuốn sách này sẽ là một bước tiến về nghiên cứu lịch sử để có một bộ sách lịch sử sân khấu cải lương tiếp cận sự thật hơn.

Xin chân thành cảm ơn sự tha thứ của quý vị!



Hà Nội 11 – 2007

Tuấn Giang





Mở đầu



1. Lý do chọn đề tài



Nghiên cứu nghệ thuật hiện nay công trình nào đều cần thiết và quan trọng ở nước ta, hầu như sự nghiệp nghiên cứu phần nào cũng bề bộn những việc đang làm, hoặc chưa làm được. Đó là một thực tiễn nghiên cứu sân khấu, dù các thế hệ nghiên cứu đã làm việc hết mình, công bố nhiều công trình nghiên cứu cơ bản, ứng dụng, thử nghiệm... nhưng vẫn chưa đáp ứng tình hình nghiên cứu đang đặt ra trong thời đại mới.



Nghiên cứu sân khấu trong từng thể loại đã có các nhà nghiên cứu riêng ở từng chuyên ngành, đặc biệt phần sưu tầm, nghiên cứu cơ bản được quan tâm nhiều. Phần nghiên cứu ứng dụng, thử nghiệm có chỗ mỏng hơn, nhưng trong vòng năm bẩy năm trở lại đây đã được đặt lên hàng đầu, nên có nhiều công trình nghiên cứu kịp thời, đáp ứng một phần thực tiễn xã hội và đời sống sân khấu. Vì thế, mọi hoạt động nghệ thuật và sân khấu luôn là sự bùng nổ của nhịp sống xã hội hiện tại, phản ánh xu thế thời đại và thị hiếu công chúng, khi thời gian đi qua sẽ là sự im lặng của quá khứ. Tương lai bắt đầu từ đâu, nếu không khởi hình từ hiện tại mà hiện tại luôn là quá khứ của tương lai. Vì thế, muốn bảo tồn những cái đã qua là ghi chép sử liệu. Ghi chép hay lịch sử của mỗi chuyên ngành, nghệ thuật, từng được ghi lại từ một tác giả đến một nhóm tác giả, nhưng mãi mãi chưa làm thoả mãn những người quan tâm đến lịch sử, văn hoá, nghệ thuật. Vì lịch sử là những sự kiện đã qua mà những người viết chưa bao giờ là nhân chứng của một phần thật, hoặc toàn bộ sự thật. Nên lịch sử luôn được viết đi, viết lại để ngày càng tiếp cận hiện thực, đó là điều mà lịch sử sân khấu luôn được quan tâm, các nhà nghiên cứu cần hoàn chỉnh một bộ sách Lịch sử sân khấu Việt Nam. Điều đó, luôn là mơ ước của tương lai, bởi nhìn lại trữ liệu lịch sử sân khấu Việt Nam hiện nay chưa có? Tuy nó đã có nhưng vẫn là chưa, bởi chưa có nhóm biên soạn nào tập hợp lại công bố một bộ lịch sử sân khấu Việt Nam từ khởi hình đến nay, hiện tại chưa có tác giả nào công bố một công trình lịch sử sân khấu của một chuyên ngành từ lúc ra đời một thể loại sân khấu ấy đến hiện nay. Đó là những khoảng trống của ngành nghiên cứu sân khấu đang tồn tại một hiện thực không thể chấp nhận được, bởi mọi hoạt động sân khấu đang diễn ra gay gắt, mãnh liệt trên nhiều mặt hoạt động đời sống xã hội và sân khấu, nếu không được ghi chép lại sẽ chẳng còn gì cho mai sau. Vì thế, viết lịch sử sân khấu cho một chuyên ngành là quan trọng, cần thiết, góp phần xây dựng bộ lịch sử sân khấu Việt Nam đầy đủ hơn, giúp ích cho công tác giảng dạy trong các trường nghệ thuật. Viết lịch sử sân khấu là thiết thực bảo tồn nền sân khấu và các chuyên ngành sân khấu, nếu không có lịch sử sẽ không còn lại gì cho tương lai... Đó là lý do cấp thiết của đề tài nghiên cứu Lịch sử sân khấu cải lương, có giá trị thời sự và lâu dài, góp phần bảo tồn chuyên ngành sân khấu cải lương. Vì thế cần được quan tâm đến đề tài lịch sử:



- Góp phần hoàn chỉnh lịch sử sân khấu cải lương

- Hoàn chỉnh bộ lịch sử sân khấu Việt Nam đương đại

- Hoàn chỉnh giáo trình đào tạo sân khấu cải lương và sân khấu Việt Nam.



Những yêu cầu cấp thiết ấy, là vị trí quan trọng của đề tài lịch sử sân khấu cải lương cần được quan tâm, đầu tư góp phần bảo tồn các mặt hoạt động sân khấu cải lương từ năm 1918 đến năm 2007. Muốn có một công trình nghiên cứu lịch sử sân khấu cải lương đáp ứng những mong đợi của công tác nghiên cứu, đào tạo, cần nhìn lại lịch sử nghiên cứu của đề tài Lịch sử sân khấu cải lương từ quá khứ ra đời nghệ thuật cải lương đến nay, để bổ xung và hoàn chỉnh cho công trình.



2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài



Nghiên cứu lịch sử sân khấu cải lương có nhiều tác giả và các nhóm nghiên cứu đã công bố, hoặc đang viết, nhưng còn nằm rải rác ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoặc còn thiếu nhiều giai đoạn chưa được tập hợp lại vào một công trình nghiên cứu. Nhiều công trình diễn giải dưới dạng hồi ký, sưu tầm tư liệu, có công trình tóm lược giới thiệu những nét hoạt động sân khấu cải lương... Nhưng hiện nay, còn thiếu một công trình nghiên cứu viết theo phương pháp nghiên cứu lịch sử ra đời, phát triển sân khấu cải lương. Nhìn lại lịch sử sân khấu Việt Nam và sân khấu cải lương, còn nhiều khoảng trống chưa được quan tâm, nghiên cứu. Trước sự hội nhập nghệ thuật, sân khấu toàn cầu hoá, công tác nghiên cứu lịch sử các bộ môn nghệ thuật cần thực hiện hoàn chỉnh từng chuyên ngành, nhằm khẳng định nền nghệ thuật Việt Nam, sân khấu Việt Nam, dân tộc và thời đại.



Tình hình nghiên cứu sân khấu cải lương có thể kiểm lại khá đầy đủ những công trình nghiên cứu có tính lịch sử đã công bố: Lịch sử sân khấu Việt Nam, tập II, phần cải lương của nhóm tác giả chấp bút: Hoài Anh, Đức Kôn, Sơn Nam, Phùng Hà, Kim Cúc, Ba Vân, Trần Hữu Thưởng, Kiên Giang... Nhóm biên soạn đã trình bầy những tư liệu về quá trình hình thành sân khấu cải lương có nguồn gốc ca nhạc Bắc từ năm 1470 là Nhã nhạc. Dàn nhạc ấy, có ảnh hưởng đến ca nhạc tài tử vào năm 1900, hình thức ca nhạc tài tử phát triển ở Nam Bộ. Từ năm 1912 đến 1915, ra đời hình thức ca ra bộ, năm 1918 tiến lên sân khấu cải lương. Các tác giả viết một mạch theo các đề mục: I- Hát cải lương, II - Những hoạt động chuyên nghiệp, III - Mấy lời tạm kết. Nhưng phần sắp xếp nội dung bên trong các đề mục lớn còn khá lộn xộn, thiếu logic. Đó là kết thúc phần lịch sử cải lương từ năm 1900 đến 1945. Cuốn Nghệ thuật cải lương những trang sử của Trương Bỉnh Tòng. Tác giả trình bầy VI chương. Chương I - Hát cải lương từ đâu mà có? Theo tác giả sự hình thành cải lương vào thế kỷ XVII, nhưng đến năm 1910 có ca nhạc tài tử Nam Bộ, năm 1914 - 1915 ra đời ca ra bộ, năm 1918 ra đời sân khấu cải lương. Tác giả trình bầy theo lối văn kể chuyện, xen lẫn bình luận, có trích dẫn tư liệu của một số nhà nghiên cứu nói về nghệ thuật cải lương và giới thiệu một số đoàn cải lương hoạt động đến năm 1989 thì kết thúc cuốn sách. Nhưng viết khá sơ lược về các mặt hoạt động cải lương, như tác giả mới nghe kể về sân khấu cải lương, ông vừa viết, vừa nghe có như thế… Cuốn Nghệ thuật cải lương trên đất Bắc của Ngọc Văn, viết về hoạt động cải lương từ năm 1919 đến 1954, đây như cuốn ghi chép của người làm nghề, nói về sự ra đời cải lương Nam, ảnh hưởng trên đất Bắc, dẫn đến sự ra đời cải lương Bắc, hoạt động đến năm 1954 thì kết thúc phần viết của tác giả. Cuốn Hồi ký 50 năm mê hát của Vương Hồng Sến, đây là cuốn ghi chép tư liệu theo hình thức nhật ký sân khấu, được ghi lại từ năm 1916 đến năm 1966, theo cảm nhận chủ quan của tác giả, nhưng những ghi chép của ông khá thống nhất với nhiều nhận định chung của báo chí, các nhà nghiên cứu và những nghệ sĩ, có vẻ khá trung thực. Nên cuốn sách của ông được các nhà nghiên cứu coi là kho tư liệu vàng, nhiều người phải trích dẫn những ghi chép của ông như một tư liệu duy nhất về những hoạt động sân khấu cải lương. Tuy nhiên, sau này còn nhiều nguồn tư liệu khác phản ánh khá phong phú về hoạt động cải lương Nam - Bắc. Nhưng phải nói cuốn sách của ông đã công bố có tính lịch sử với nhiều tư liệu quý, dù còn hạn chế , chưa trình bầy có hệ thống một tiến trình lịch sử sân khấu cải lương... Về phương pháp viết, mỗi nhóm tác giả, mỗi tác giả viết theo những cảm nhận chủ quan, chưa viết theo phương pháp nghiên cứu lịch sử. Có tác giả trình bầy quá sơ lược, chưa thống nhất phương pháp viết trong một công trình, hay một cuốn sách.



Lịch sử nghiên cứu đề tài Lịch sử sân khấu cải lương đã có nhiều người viết, xuất hiện những quan niệm khác nhau, nhưng còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế về nhiều mặt. Nên từ thực tiễn ấy, tác giả mong muốn có một cuốn lịch sử sân khấu cải lương tương đối hoàn chỉnh (dù là sơ thảo bước đầu) nhưng có tính hệ thống, đầy đủ hơn theo phân kỳ lịch sử và các mặt hoạt động của sân khấu cải lương. Cuốn Lịch sử sân khấu cải lương (sơ thảo) của tác giả, sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều yêu cầu mong đợi của nhà trường và công chúng quan tâm, yêu thích cải lương.



3. Đối tượng nghiên cứu



Công trình Lịch sử sân khấu cải lương, là đề tài nghiên cứu lịch sử, nên phương pháp, văn phong viết theo phương pháp viết sử có tính lịch sử, nêu bật những tư liệu, sự kiện lịch sử của hoạt động cải lương. Đối tượng nghiên cứu là:

- Lịch sử hình thành, phát triển sân khấu cải lương

- Những hoạt động sân khấu cải lương trên cả nước

- Nêu bật những phong cách, những ban hát hoạt động có tính lịch sử, qua các giai đoạn hình thành, phát triển cải lương.

Nghiên cứu lịch sử sân khấu cải lương là khẳng định quá trình hình thành, phát triển cải lương mang lại những giá trị văn hoá dân tộc của một thể loại sân khấu. Nên công trình sẽ công bố những tư liệu có tính lịch sử, những chi tiết chọn lọc nhất để khẳng định một tiến trình phát triển sân khấu cải lương theo phương pháp lịch sử học.



4. Nội dung nghiên cứu



Công trình Lịch sử sân khấu cải lương, căn cứ vào những tư liệu sát thực do các nhà sưu tầm, nghiên cứu trước ghi chép lại, qua sự so sánh tổng hợp, phân tích nhiều nguồn tư liệu để tìm ra những đặc điểm có tính chân thực lịch sử cải lương. Nội dung công trình nghiên cứu là:

- Nghiên cứu thực tiễn hình thành, phát triển cải lương qua các giai đoạn lịch sử

- Nghiên cứu, sưu tầm các nguồn tư liệu lịch sử: báo chí, chi chép hồi ký của các tác giả, thực tiễn hoạt động sân khấu, sân khấu hội diễn, xã hội hoá...

- Nghiên cứu lịch sử sân khấu cải lương từ 1918 đến 2007.



Nội dung công trình lịch sử sân khấu cải lương là nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển cải lương dựa trên nguồn tư liệu: quá khứ lịch sử, những hoạt động hiện nay. Công trình sẽ tổng hợp nhiều nguồn tư liệu quý hiếm, sát thực để khẳng định lịch sử sân khấu cải lương có căn cứ khách quan, khoa học mang tính hệ thống, có phần hoàn chỉnh hơn.



5. Phương pháp nghiên cứu



Đây là một công trình cấp Viện, nhưng được chia thành hai phần khép kín thời gian, khép kín các mặt hoạt động sân khấu cải lương. Nên phương pháp nghiên cứu kết hợp:

- Mô tả

- Đồng đại

- Đối chiếu

- Lý luận lịch sử

Qua đó, công trình lịch sử sân khấu cải lương, lần đầu tiên viết ra có tính hoàn chỉnh tương đối về các mặt hoạt động cải lương, mang phong cách viết sử sân khấu cải lương.



6. Giới hạn công trình



Dù thời gian, kinh phí có hạn, nhưng tác giả cố gắng hoàn thành công trình với tinh thần trách nhiệm hết mình của người cầm bút. Công trình sẽ nêu bật những giả thiết lịch sử, những tư liệu sát thực, những nhận định của các nhà viết sử tiền nhiệm, qua đó khẳng định những hiện thực lịch sử mới về sự hình thành, phát triển sân khấu cải lương. Những thành công mà công trình mong muốn đạt tới là:



- Những phát hiện mới có tính khách quan khoa học, sát thực về sự hình thành, phát triển cải lương.

- Nêu bật những cống hiến có tính văn hoá, dân chủ xã hội, giải thoát tinh thần con người trong những giai đoạn lịch sử ra đời, phát triển cải lương.

- Khẳng định giá trị lịch sử, phong cách các đoàn, các nghệ sĩ cải lương tiêu biểu, qua nghệ thuật biểu diễn đã làm nên một lịch sử sân khấu cải lương. Công trình còn hoàn chỉnh về một phong cách viết lịch sử sân khấu, nhất quán về bút pháp và những nhận định có tính khách quan trung thực lịch sử.

Tuy vậy, mới là những ước vọng, còn thực tiễn trên từng trang viết sẽ không tránh khỏi hạn chế về tư liệu và sai sót khác. Vì thế, công trình Lịch sử sân khấu cải lương, lần đầu tiên có tính tổng hợp này gặp nhiều khó khăn về tư liệu, và các mặt hoạt động cải lương. Công trình sẽ còn những hạn chế:

- Sẽ có những giai đoạn viết sơ lược, mỏng về tư liệu thực tiễn lịch sử, chưa nêu bật phong cách diễn của nhiều nghệ sĩ, nhiều đoàn thời Sài Gòn tạm chiếm.

- Sẽ bỏ sót những tư liệu lịch sử, những diễn biến phức tạp của sân khấu cải lương qua một số giai đoạn mà phải có thời gian sưu tầm nữa mới khám phá thêm nhiều tư liệu quý.

- Nếu công trình có thời gian đầu tư nhiều hơn, sẽ hạn chế bớt những khiếm khuyết do những nguyên nhân chủ quan, khách quan, dù đã biết vẫn không tránh được.



Nhưng đây là một công trình lịch sử sân khấu cải lương, có tính sơ thảo bước đầu, nên sẽ là những gợi ý cho những công trình sau hoàn chỉnh hơn, khắc phục những gì mà tác giả đã bỏ sót. Đó là giá trị của những nhà nghiên cứu lịch sử, họ luôn phải viết lại để tìm đến một sự thật đầy đủ hơn. Vì lịch sử luôn phải bóc tách những lớp vỏ bọc thời gian để tiếp cận chân lý - hiện thực khách quan.



7. Những đóng góp khoa học



Công trình Lịch sử sân khấu cải lương, là đề tài lần đầu tiên có tính hệ thống các giai đoạn lịch sử hoạt động sân khấu cải lương, nêu bật những bước phát triển cải lương với những nhận định mới, quan điểm mới về một cách lý giải lịch sử, có văn phong lịch sử khá thống nhất về một bút pháp viết sử sân khấu. Những đóng góp khoa học của công trình làm nổi bật lên:



- Quá trình hình thành sân khấu cải lương có tính hiện thực khoa học, về một thể loại sân khấu dân tộc, bản địa Nam Bộ.

- Nêu lên quá trình phát triển sân khấu cải lương có những hoạt động nổi bật về tác phẩm kịch, đội ngũ diễn viên, tác giả cải lương... qua các giai đoạn lịch sử.

- Khẳng định những giá trị văn hoá tinh thần dân tộc, bản địa của sân khấu cải lương, góp phần xây dựng đời sống xã hội, đó là ý nghĩa bài học lịch sử ra đời, phát triển cải lương trên mọi miền đất nước.



Công trình còn giới thiệu hệ thống tư liệu mới về đời sống sân khấu cải lương có những thành công, thất bại trong quá trình phát triển cải lương. Những tư liệu lịch sử ấy, là hệ giá trị của công tác sưu tầm, hệ thống hoá, giúp cho công tác soạn giáo trình, giáo án, giảng dạy bộ môn lịch sử sân khấu cải lương tại các trường văn hoá, nghệ thuật trên cả nước. Công trình Lịch sử sân khấu cải lương, góp phần hoàn chỉnh lịch sử nghệ thuật cải lương là một hình thức sân khấu phát triển mạnh, có số công chúng đông nhất trong các hình thức sân khấu, dù nó đang đứng trước sự khủng hoảng tan rã nhiều đoàn cải lương trong hướng xã hội hoá nghệ thuật, tồn tại, phát triển trong thời đại mới. Đó là sự đổi mới sâu sắc từ thực tiễn lịch sử sân khấu cải lương trước lớp công chúng mới và nghệ thuật thời đại phát triển công nghệ hiện đại hoá.







Chương 1



Sự hình thành, ra đời sân khấu cải lương

từ 1910 đến 1918





I. Sự hình thành sân khấu cải lương.

Quy luật tiến hoá xã hội loài người phản ánh tiến trình sáng tạo các nền văn minh vật chất, văn minh tinh thần, làm nảy sinh những hình thái nghệ thuật mới gắn liền với trình độ kỹ thuật và thẩm mỹ văn hoá.



Các nền văn minh vật chất phản ánh một phần diện mạo nền kinh tế, chính trị xã hội, chi phối các hình thái nghệ thuật mang sắc thái riêng những vùng miền. Mỗi hình thái nghệ thuật phản ánh nhu cầu thẩm mỹ công chúng mang tính trí tuệ của một quốc gia, dân tộc. Sự phát triển kinh tế, khoa học, chính trị xã hội là điều kiện nẩy sinh các trào lưu nghệ thuật mới. Lịch sử kinh tế, chính trị thế giới luôn tác động, ảnh hưởng đến các quốc gia từ khi chủ nghĩa tư bản công nghiệp ra đời làm thay đổi nhanh diện mạo các nước thuộc địa. Nước ta sau đại chiến thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam phát triển, ra đời các thương gia, chủ xí nghiệp, xưởng máy, các ngành dệt may… Vì tham gia vào cuộc đại chiến, nước Pháp nới lỏng các thuộc địa, tạo thời cơ cho giai cấp tư sản trưởng thành. Sau cuộc chiến, Pháp quay lại Đông Dương tăng cường khai thác thuộc địa, bòn rút sản vật đưa về nước, đầu tư sản xuất, kinh doanh làm suy yếu giai cấp tư sản Việt Nam dẫn đến mâu thuẫn giai cấp. Một mặt kìm hãm giai cấp tư sản Việt Nam, mặt khác lại đầu tư nhỏ giọt vào các ngành kinh tế then chốt, nếu nhìn bề nổi hàng hoá sản phẩm tiêu dùng tăng trưởng, nhưng thực chất thu nhập quốc dân vẫn là một nước phải khai hoá văn minh, phụ thuộc vào “nước mẹ”.



ở nước ta những ngành kinh tế mạnh chưa được đầu tư, quan tâm phát triển mà chỉ đầu tư những ngành có lợi cho buôn bán thông thương, xuất nhập khẩu, thu lợi nhuận.



1. Kinh tế công nghiệp



Pháp mở cuộc tấn công nước ta tháng 8 – 1856 đến năm 1884 độc chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, theo hoà ước nhà Nguyễn công nhân quyền cai trị của nước Pháp. Pháp thiết lập bộ máy cai trị Liên bang Đông Dương, giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện một số người như Hồng Tân Hưng, Quảng Nam Hiệp thương, Công ty Hưng Long, Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi… Sau đó, ra đời các hãng buôn lớn: Sơn Nguyên Sơn Hà, Công ty Liên Thành, xưởng dệt Lê Phát Vĩnh, Hiệu thêu Đình Long, Hiệu ảnh Khánh Kỳ, Công ty sản xuất Điện Tùng Long, Phan Thiết, Ngân hàng Việt Nam Lê Văn Giồng, Sài Gòn, Công ty Tiên Long, Hưng nghiệp, Thanh Hoá, Công ty nấu rượu Văn Điển, Lò Bát Thanh Trì, Hưng Ký ở Yên Viên, sản xuất thuỷ tinh, Tập đoàn Cao su Trương Hoà Phát, ngành than tuyển mộ công nhân mỏ, mở đồn điền[1]… Nhìn lại mới thấy kinh tế công nghiệp lạc hậu và nhỏ bé, người Pháp tập chung phát triển buôn bán ở các đô thị, liên kết với giai cấp tư sản mở một số đồn điền, các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, một vài nhà máy công nghiệp nhẹ. Nhưng sự thông thương và kinh tế công nghiệp nhẹ phát triển tạo thành những đô thị dân cư, có nhu câu văn hoá, nếp sống mới.



Cuộc khai thác Đông Dương lần thứ nhất 1890 – 1918 [2], Pháp đầu tư các ngành: khai thác mỏ 249 triệu, nông nghiệp 40 triệu, giao thông 128 triệu Phrăng. Giao thông phát triển mạnh, xây dựng cầu cảng, đường sắt, đường bộ xuyên Việt, thuận lợi đi lại, buôn bán. Đông Dương là thuộc địa độc chiếm của Pháp, chủ yếu là Việt Nam, các chủ tư bản Pháp độc quyền mở đồn điền, liên kết với các tư bản Việt Nam, các hãng buôn lớn mở công sở ở Bắc – Trung – Nam Kỳ.



Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai 1919 – 1930 về mục tiêu như lần thứ nhất, vơ vét thuộc địa làm giầu nước Pháp để nhanh chóng thoát khỏi sự trì trệ kinh tế, chính trị xã hội. Sau cuộc chiến tranh lần thứ nhất, Pháp rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1919 – 1929, nên trở thành con nợ lớn nhất trong các nước tư bản. Do đó, cuộc khai thác lần thứ hai có những thay đổi căn bản, vốn đầu tư vào các nước thuộc địa là của tư bản tư nhân, đầu tư trọng yếu vào nông nghiệp. Đây là những thay đổi trong cuộc khai thác Đông Dương lần thứ hai của Pháp với các nước thuộc địa.



Qua hai cuộc khai thác Đông Dương lần thứ nhất, lần thứ hai có những thay đổi căn bản, về kinh tế phát triển giao thông, buôn bán, các ngành thủ công, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp… làm thay đổi bộ mặt xã hội Việt Nam chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp phong kiến sang nền kinh tế tư bản thành thị, tạo điều kiện thay đổi về tư tưởng và quan hệ xã hội.



2. Kinh tế nông nghiệp



Cuộc khai thác Đông Dương lần thứ nhất đầu tư cho nông nghiệp thấp nhất, thực hiện chính sách “cướp đoạt ruộng đất” [3], ở Nam Bộ nhiều đại địa chủ Pháp như LiKa, GoBe, Dmong, PoDa, LaBe, EmoTy… có 2000, 3000 ha đất canh tác. Chính phủ Pháp đánh thuê nặng các loại thuế để tăng thu ngân sách, chỉ tính riêng thuế giảm thu mỗi năm đem lại 32.000.000 phrăng, xuất khẩu gạo 1,4 triệu tấn năm… đây là những nguồn lợi khổng lồ là kết quả của cuộc khai hoá văn minh của Pháp ở Đông Dương. Cùng với sự thu lợi nhuận, Pháp đã chú trọng tới các mặt văn hoá xã hội trên ba mục tiêu: đem văn minh phương Tây vào Việt Nam là khoa học kỹ thuật Tây, đào tạo lớp trí thức Tây học, ủng hộ những người thân Pháp bắt tay với các trí thức, tư sản, ngăn cấm những xu hướng dân chủ tiến bộ. Cuộc khai thác lần thứ hai, đầu tư vào nông nghiệp là 400 triệu phrăng, khai hoang hàng trăm đồn điền cao su, miệt vườn… Các chủ đồn điền Pháp – Việt ra sức bóc lột lao động sống, tận thu sức lao động giản đơn của tá điền. Nhưng sự phát triển các đồn điền tạo bước ngoặt đổi mới nông nghiệp, chuyển đổi giống cây trồng, ra đời các đồn điền mới: chè, hạt tiêu, cà phê, cam dừa… Các hãng cao su nổi tiếng ở Việt Nam, những ai sống dưới thời Pháp sẽ không quên hàng tiêu dùng của hãng Misơlanh, Công ty Đất đỏ, Công ty Cây trồng nhiệt đới…



Sự phát triển nông nghiệp lúa và cây công nghiệp đã ra đời các ngành công nghiệp như chế biến, khai khoáng, than đá, khai thác mỏ… phát triển ngoại thương, nội thương và giao thông vận tải tạo thành cái trục cấu trúc kinh tế xã hội mới: Công nghiệp – Nông nghiệp – Nội ngoại thương – Giao thông vận tải. Sự đổi mới xã hội nông thôn Việt Nam, tạo thành những khu vực dân cư văn hoá mới. Đây là bước phát triển của cơ cấu kinh tế, xã hội Việt Nam sau hai lần khai hoá văn minh Pháp.

Nhà nước Pháp vừa khai thác là bóc lột, tận thu các sản vật và nhân lực ở Việt Nam, nhưng mặt khác đã đầu tư kỹ thuật, cơ cấu kinh tế mới làm thay đổi nền kinh tế nông nghiệp dần thoát khỏi chế độ phong kiến bảo thủ lạc hậu, kém phát triển, hướng tới văn minh.







3. Tình hình văn hoá tư tưởng xã hội Việt Nam



Sau khai hoá Đông Dương lần thứ hai, dù còn nhiều hạn chế về phát triển kinh tế, nhất là công nghiệp nặng nhưng đã làm thay đổi nền tảng kinh tế Việt Nam, xuất hiện nền kinh tế nhiều ngành có cấu trúc

[1] Theo trang 126 – 127 Giỏo trỡnh Lịch sử – Trường Trung học Lưu trữ 1996.

[1] Theo trang 226 – 228, đưa theo cuốn Tiến trỡnh lịch sử Việt Nam – NXB Giỏo dục, 2001.

[1] Theo trang 226 – 228, đưa theo cuốn Tiến trỡnh lịch sử Việt Nam – NXB Giỏo dục, 2001.





mới. Hình thành mối quan hệ hữu cơ giữa các ngành kinh tế ra đời những thị trấn, thị xã, thành phố đông dân cư, từng bước thành thị hoá đời sống nhân dân.

Những khu dân cư mới, xuất hiện mô hình sản xuất, quan hệ xã hội mới, dân trí nâng cao, phổ biến chữ quốc ngữ thay cho chữ hán, chữ nôm. Sự phát triển chữ quốc ngữ khai sáng dân chủ cho nhận thức trí tuệ, phổ biến khoa học kỹ thuật, mở cửa tiếp nhận các hình thái văn học nghệ thuật Pháp vào nước ta. Vào những năm đầu thế kỷ XX, khoảng năm 1919 – 1920 là sự gặp gỡ hai giá trị văn hoá, văn hoá nho giáo và văn hoá ngoại nhập. Sau những năm 20 và 30 của thế kỷ trước nổi lên ba nền văn hoá, văn hoá nho giáo, văn hoá mới (văn hoá tiến bộ cách mạng), văn hoá thực dân. Văn hoá nho giáo là nền văn hoá truyền thống có phần già cỗi bảo thủ, nếu chỉnh sửa đôi chút sẽ phù hợp hơn. Nền văn hoá tiến bộ cách mạng đang hình thành, phát triển vào các tầng lớp trí thức yêu nước và nhân dân lao động, sau này là sức mạnh cách mạng giải phóng dân tộc. Nền văn hoá thực dân nô dịch, có tiến bộ và <<Từ này không được phép>>. Những chủ chương của nước Pháp tuyên truyền cho Pháp Việt bang giao, cam chịu đô hộ nhằm ổn định xã hội để đầu tư khai thác. Phù hoạ cho những chủ trương ấy, có các nhà truyền giáo, bồi bút đề cao chính quốc, công kích những người cách mạng có tư tưởng văn hoá tiến bộ. Những trào lưu tư tưởng khai sáng văn hoá là sự ra đời các tờ báo năm 1865, tờ Gia định báo, năm 1901, Nông cổ min đàm, năm 1917 xuất hiện tờ Nam phong của Phạm Quỳnh, năm 1919 Hội khai trí tiến Đức, có một số tờ báo mang tính dân tộc, cách mạng như Clochefebéc (chuông rạn[4]) Lannam nước nam của Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường… Nhiều thành phố lớn Hà Nội, Huế, Sài Gòn ra đời các nhà xuất bản, đó là nơi công bố những tác phẩm văn học Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, thay cho chữ nôm. Năm 1925, ra đời tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, năm 1922 vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long ; Bạn và vợ, Nguyễn Hữu Kim, Hoàng Mộng Điệp, Vi Huyền Đắc, Chàng ngốc, Nam Xương… Đây là những tác phẩm văn học đầu tiên công bố theo một lối cấu trúc tác phẩm, văn phong có ngôn ngữ mới được công chúng hâm mộ. Những tác phẩm văn học, sân khấu đầu tiên ấy mở đường cho sự ra đời các dòng văn học hiện thực phê phán, lãng mạn và cách mạng, phản ánh hiện thực con người mới sau này.



Sự khai hoá đông dương lần thứ nhất, lần thứ hai, kết quả đem lại thật bất ngờ, người Pháp thu lợi, nhưng sự trả giá cũng không nhỏ, sắp đến lúc “thày phù thuỷ không điều khiển nổi âm binh”. Những biến đổi kinh tế, văn hoá, tư tưởng đang lay động xã hội thuộc địa mà người Pháp muốn giữ yên để cai trị. Những tư tưởng văn hoá tiến bộ xã hội đang biến thành sức mạnh, là động lực phát triển các mặt đời sống tinh thần nhân dân. Những phong trào cải cách xã hội xuất hiện như Khai trí, Duy tân… kéo theo sự cải cách văn hoá nghệ thuật, có sự châm ngòi do các trào lưu văn hoá nghệ thuật nước ngoài tràn vào nước ta, trên mảnh đất Nam Bộ bao giờ cũng là sự mở cửa với phương Tây từ xa xưa và cả hôm nay.



4. Sự phát triển ca nhạc tài tử carabộ



Nghệ thuật phương Tây, chủ yếu là nghệ thuật Pháp theo các trào lưu văn hoá vào nước ta nhiều loại hình ca nhạc, múa và sân khấu… Hoà nhập vào phong trào cải cách xã hội, cải cách văn hoá nghệ thuật, nâng cao dân trí theo hướng thẩm mỹ mới. Sự ra đời các tờ báo, tạp chí, các nhà xuất bản là điều kiện phổ biến các tác phẩm văn học nghệ thuật bằng văn bản sâu rộng trong nhân dân, có ý nghĩa thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách xã hội. Những phong trào cải cách xã hội, là điều kiện xuất hiện nhu cầu văn hoá thẩm mỹ mới từ những vùng dân cư do nền kinh tế tạo ra. Sự chuyển hoá cơ cấu kinh tế công thương, nông nghiệp, tập chung các khu dân cư tạo sự biến đổi sâu sắc trong xã hội Việt Nam, xuất hiện các dòng văn hoá tư tưởng mới tác động vào nghệ thuật.



Vào thời gian ấy, ở Nam Bộ phong trào ca nhạc tài tử phát triển mạnh ra đời nhiều hình thức đàn ca tài tử, nhạc phong tục, nhạc lễ, nhạc thính phòng… một bộ phận đàn ca tài tử hình thành hình thức sân khấu. Nhưng ca nhạc tài tử là hình thức ca nhạc dân gian, ngay cách đặt tên của người xưa gọi là: ca nhạc tài từ, nghĩa là những người chơi nhạc tài tử, tuỳ hứng, tự do đàn hát, ứng tác một cách tài tử bẩm sinh. Những người chơi nhạc này không mang tính chuyên nghiệp, có thể suy đoán rằng họ là những nghệ nhân dân gian chơi nhạc theo cảm hứng, không phải là một nghề kiếm sống. Theo nhiều tài liệu và các nghệ nhân kể lại, những người chơi nhạc tài tử xuất hiện từ năm 1890 ở miền Đông Nam Bộ có nhóm nhạc tài tử thường đàn ca trong đám giỗ, làm nhà mới, cưới hỏi… Muốn ra đời một nhóm nhạc tài tử thì trước đó chắc hẳn là có những nghệ nhân chơi đàn tự do, chỉ để mua vui bạn bè, giải trí cá nhân. Sau đó, người nọ truyền lại người kia học truyền nghề lẫn nhau đi tới hình thành, ra đời các nhóm nhạc đàn ca. Những nhóm nhạc ấy, biểu diễn vui bạn bè và mừng cất nhà, cưới hỏi… mọi người



[1] Theo sách đó dẫn, trang 254.





thấy hay bắt chước làm theo thành ra trào lưu, phong tục chơi nhạc trong những ngày vui. Đó là quá trình hình thành, ra đời ca nhạc tài tử Nam Bộ từ dân gian đến ca nhạc phong tục, nghi lễ.



Nhạc dân gian là nền ca nhạc xuất hiện sớm nhất, xuất hiện đầu tiên làm nền tảng cho các hình thức ca nhạc sau này. Phải trở lại nguồn gốc âm nhạc, xuất phát từ tâm lý bản ngữ ra đời nghệ thuật âm nhạc. Âm nhạc ra đời cùng với sự xuất hiện ngôn ngữ, công cụ lao động sản xuất, đó là giòng ca nhạc dân gian đầu tiên của loài người. Giòng ca nhạc dân gian ấy phát triển lên chuyên nghiệp mới phân chia thành các loại nhạc phong tục, nhạc lễ, nhạc của các loại hình nghệ thuật. Từ nhạc dân gian đến nhạc phong tục là bước phát triển thứ hai của ca nhạc dân gian. Nhạc phong tục là âm nhạc biểu diễn phục vụ những thói quen sinh hoạt của nhân dân tạo không khí vui chơi như tục cưới hỏi, tục đón dâu, tục hội làng… Sau phần lễ đến phần hội, có nhạc vui chơi. Nhạc nghi lễ là nhạc chuyên hoà tấu trong các hình thức lễ nghi như lễ nhập điền, vào hè, lễ đón rước thần linh… Âm nhạc xuất hiện với những bài cúng lễ, hoặc nhạc nghi lễ trong các nghi thức ngoại giao, phong chức… Sau này, nhạc nghi lễ có nhiều loại tổ chức nghi thức khác nhau. Sự chuyển hoá nhạc dân gian chuyển lên nhạc phong tục, nghi lễ… những hình thức sinh hoạt này thường đi liền với nhau. Nhưng nhạc phong tục có trước nhạc lễ, bởi phong tục là những tục lệ do thói quen của một gia đình, gia tộc hay một cộng đồng người. Hình thức phong tục có trước, sau tục thiêng mới đến nghi lễ. Do đó, nhạc lễ có sau nhạc phong tục. Nhìn lại tiến trình lịch sử khí nhạc Việt Nam, nhạc lễ đến thời Lý năm 1010 có dàn nhạc lễ thời Lý, tuy nhiên tư liệu này chưa phải là đầu tiên, duy nhất. Nhưng đó là một biểu hiện nhạc lễ sinh sau, hoàn thiện sau nhạc phong tục.



Từ đó, để xét ca nhạc tài tử Nam Bộ là giòng ca nhạc dân gian Nam Bộ của những cư dân mới lập nghiệp ở miền đất khẩn hoang. Những nhóm nhạc tài tử ấy, chơi vui, sau đó ra đời nhạc phong tục đến nhạc lễ. Nhạc lễ đi vào trình thức là nhạc thiêng có luật lệ để hiến dâng thánh thần, không phải biểu diễn cho dân chúng. Từ đó, nhạc tài tử có hai giòng, một là dân ca tài tử, hai là nhạc nghi lễ.



Ca nhạc tài tử khi phát triển thành phong tục, nghi lễ đã ra đời các nhóm tài tử có tính chuyên nghiệp đi hoà tấu trong nhân dân. Sự phát triển ấy, tạo ra những hình thức cách tân ca nhạc tài tử, sáng tác bài bản mới, đặt lời ca mới cho phù hợp với các hình thức phong tục, nghi lễ. Nhạc nghi lễ ra đời một bước hoàn chỉnh bài bản âm nhạc, dàn nhạc hoà tấu cho các hình thức nghi lễ. Do đòi hỏi thực tiễn cuộc sống, nhạc tài tử ngày càng cải cách, nâng cao cho hợp với các nhu cầu của công chúng, từ đó nhạc công, nhạc sĩ ra sức sáng tác, đặt lời ca, nâng cao kỹ thuật biểu diễn dẫn đến sự phát triển phong phú các hình thức ca nhạc tài tử. Năm 1910 đến 1918, nhạc tài tử cải cách điệu Tứ đại oán thành trò diễn xướng dân gian carabộ, đây là sự hình thành hình thức sân khấu đầu tiên ở Nam Bộ.

Sau khi độc chiếm Đông Dương, người Pháp ở Sài Gòn có Nhà hát tây, các đoàn nghệ thuật Pháp sang diễn quanh năm, sáu tháng mùa khô các đoàn nhạc kịch Opera diễn thường xuyên. Sự biểu diễn nghệ thuật ấy nhằm phục vụ người Pháp, nhưng những trí thức, những người thân Pháp thường vào xem, điều ấy tác động tới những người Việt có tư tưởng đổi mới. Theo trang 39 cuốn Lịch sử sân khấu Việt Nam – Viện sân khấu xuất bản năm 1987 viết: … “xem cách trình diễn với màn, cảnh, có thời gian tạm nghỉ diễn để khán giả có thể giải lao, lại có những tấm phông, đề sơn thuỷ, panô; không có trống chầu đưa hơi, không có dàn nhạc người lộ liễu, không có điệu bộ ước lệ như hát bội”.



“Riêng trang trí, sân khấu hát bội trước đây chỉ có thợ mã, chứ không có thợ vẽ. Người ta thường trang trí trên sân khấu một cách ước lệ bằng đồ mã, vải mầu… rất có thể những tấm phông ở Nhà hát Tây Sài Gòn đã gợi ý người ta vẽ những tấm phông cảnh sơn thuỷ, triều đình, tư thất… Khi diễn đến cảnh nào thì thả tấm phong vẽ cảnh đó xuống, hết cảnh lại kéo lên. Sau đó người ta sử dụng cánh gà, cảnh triều đình thì thả cánh gà vẽ cột rồng xuống; cảnh rừng thì thả cánh gà vẽ sơn thuỷ xuống”.



Hai đoạn trích dẫn trên nói lên sự mới lạ, khác biệt của sân khấu Tây vào Nam Bộ, sau đó là sự ảnh hưởng sân khấu Tây đầu tiên tác động đến hình thức trang trí của hát bội. Hát bội trang trí ban đầu sơ lược mang tính biểu trưng, sau khi ảnh hưởng nhạc kịch Pháp, hát bội chuyển sang tả thực. Đây là sự đổi mới hát bội, do ảnh hưởng sân khấu Pháp, đem đến công chúng một hướng biểu diễn, thẩm mỹ mới.



Sau cùng là sự tác động của văn học Pháp, qua những vở nhạc kịch Opera rất gần với cải lương có hình thức ca nhạc, hát nói (resitatip), giúp các soạn giả diễn viên hát bội nghĩ đến cải cách hát ca. Sự hợp tác các soạn giả với diễn viên đã không ngừng cải cách hát bội, đầu tiên là cải cách điệu hát Nam của tuồng gần với hình thức hát nói của kịch Tây, “Gánh này diễn nửa hát bội, nửa kịch, xiêm y áo giáp thì mượn xưa nhưng diễn tả thì đã theo tân thời, nói lối xuông không hát Nam, hát Khách” [5]. Đoạn trích trên là một dẫn giải về cải cách hát bội từ hai điệu hát Nam, hát Khách thành nói lối, sau này nhập vào trò diễn carabộ, tiền đề của sân khấu cải lương.



Còn nhiều tư liệu của các nhà nghiên cứu cải lương Nam Bộ như Nguyễn Ngọc Bạch, Vương Hồng Sến, Trần Văn Khải… các báo trí Sài Gòn như Lê Hoàng Mưu, viết trên báo và kêu gọi thay chữ hát bội bằng “hát bộ”, sau đó nhiều người sử dụng thuật ngữ “hát bộ”. Qua đó, cho thấy cải cách hát bội chuyển dần sang hát bộ. Hát có điệu bộ minh hoạ mở đầu cho nghệ thuật diễn cải lương sau này bằng hình thức hát bộ – ca và bộ.



Qua những dẫn giải trên làm sáng tỏ hoàn cảnh ra đời sân khấu cải lương, cải cách hát bội từ điệu hát Nam thành nói lối trong trò diễn carabộ. Hình thức diễn tuồng do cải cách hát bội, nên cách diễn đã thay đổi gọi là hát bộ, nghĩa là hình thức diễn có điệu bộ minh hoạ cho lời ca, tiền thân của nghệ thuật ca diễn cải lương. Sự ra đời sân khấu cải lương đã có điều kiện hình thành:



- Sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội

- Sự tiếp nhận, ảnh hưởng sân khấu Pháp dẫn đến cải cách nghệ thuật, ca múa, nhạc tài tử và hát bội.

- Nhu cầu công chúng đòi hỏi một nền văn hoá nghệ thuật mới.



Đây là những điều kiện thúc đẩy sự ra đời sân khấu cải lương, một hình thức nghệ thuật mới phục vụ công chúng các đô thị Nam Bộ. Từ nhu cầu thực tiễn công chúng gắn với các phong trào dân chủ, cải cách xã hội, giòng ca nhạc tài tử phát triển mạnh. Năm 1910 đến 1914 xuất hiện hàng loạt các ban đàn ca tài tử, “Năm 1910 ở Mỹ Tho có ban tài tử Nguyễn Tống Triều được chọn đi diễn tại Pháp năm 1911”[6]. Sau Tống Triều “thương lượng với nhà hàng Minh Tân khách sạn ở ngay ga xe lửa Mỹ Tho – Sài Gòn giúp vui cho thực khác”. Từ năm 1911, ca nhạc tài tử không chỉ biểu diễn là nhạc phong tục, nghi lễ ở nông thôn Nam Bộ, ca nhạc tài tử có tính chuyên nghiệp cao đại diện cho giòng ca nhạc dân tộc bản địa đi diễn ở Pháp. Sau đó phát triển thành ca nhạc thương mại biểu diễn ở các sân khấu, nơi đông người, nhà hàng, khách sạn có doanh thu, có những ca sĩ, nhạc công sống bằng nghề đàn ca tài tử. Trong lịch sử ca nhạc tài tử có nhiều nhạc công giỏi tên là Triều, đó là các ông: Tư Triều người đàn hay nhất (tức Nguyễn Tống Triều ở Cái Thia) còn Trần Văn Triều người Rạch Gầm, riêng ông Bảy Triều người sáng tác bản Oán đậm chất Nam Bộ. Sau ban tài tử Tư Triều có hàng loạt các ban: Hồng Triều ở Vĩnh Long, Ban kinh kịch Quờn, Ban ái Nghĩa, Cần Thơ, Ban Bảy Đồng, Sa Đéc, Ban Ba Chột, Bạc Liêu…



Theo ông Trần Văn Khải viết: “năm 1912 ở Mỹ Tho, hai bên sân khấu có cây kiểng, xem rặm đám và khán giả có cảm giác đứng trước các phòng khách hạng trung lưu. Cách bài trí sân khấu nầy tuy đơn giản, nhưng nó gợi cho các nhà dàn cảnh cải lương mai hậu” (trích trang 83 sách đã dẫn). Ông Trần Văn Khải dẫn từ năm 1912, ca nhạc tài tử doanh thu, có phong cảnh gợi mở cho trang trí cải lương sau này, là kết quả của từng bước đổi mới ca nhạc tài tử có tính trình diễn sân khấu. Đến đây ca nhạc tài tử có ca nhạc phong tục, nhạc lễ, ca nhạc sân khấu, ca nhạc thính phòng, nhạc doanh thu là sự phong phú của ca nhạc tài tử. Những dẫn chứng trên còn nói rằng ca nhạc tài tử phát triển mạnh ở các đô thị đồng bằng Nam Bộ, sau đó mới tác động lên thành phố Sài Gòn. Vào năm 1914, ông chủ cửa hàng Cửu Long Giang đã mời các nhóm tài tử Nam Bộ lên diễn ở Sài Gòn. Theo ông Trần Văn Khải cho biết: “bài Tứ đại oán cải biên thành lối carabộ năm 1914, lúc đầu là văn kể chuyện do cô Ba Đắc ca, có dàn nhạc tài tử mặc quốc phục ngồi trang nghiêm trên bộ ván tứ, đến năm 1915, ông phó Mười Hai ở Vĩnh Long quy tựu anh em tài tử, rồi cho ba người thủ vai Bùi ông, Bùi Kiệm, Nguyệt Nga, đứng trên ván vừa ca vừa ra bộ”. (trích trang 84)



Bài Tứ đại oán, dựa trên lời thơ trích đoạn Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga được cải biên thành trò diễn carabộ năm 1914, do có Ba Đắc diễn là một trò diễn xướng dân gian với nghệ thuật độc diễn, một người diễn nhiều vai, giao lưu với công chúng. Đây là khởi hình của trò diễn xướng dân gian tiền sân khấu, đến năm 1915, trò diễn carabộ hình thành một trò diễn sân khấu, có đối thoại bằng văn xuôi, có ca, nói lối với ba người vào vai diễn của ba nhân vật trong trích đoạn Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga. Trò diễn carabộ có tính sân khấu diễn khắp các tỉnh Nam Bộ, lên thành phố Sài Gòn, được công chúng hâm mộ là một hình thức nghệ thuật mới.

Đây là trích đoạn Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga, diễn carabộ là hình thức diễn xướng độc diễn do cô Ba Đắc cải biên năm 1914 ở Cái Thia:







Kiệm từ khi thi rớt trở về

Bùi ông mắng nhiếc nhún trề

Cũng tại mầy ham bề vui chơi

Kiệm thưa: tài bất thắng thời

Con dễ nào không lo bề công danh

Tuổi con còn xuân xanh

Công ơn mẹ cha, con chưa đáp đền đó cha ơi

Bùi ông nghe

Tiếng nỉ non vuốt ve khuyên Kiệm

Thôi con ở lại nhà

Đặng hôm sớm với cha



Khi phát triển thành một trò diễn sân khấu, ông phó Mười Hai cho ba người trình diễn với các vai: Bùi ông, Bùi Kiệm, Nguyệt Nga, có đối thoại và ca giống như một lớp trong các kịch bản cải lương. Trò diễn sân khấu này ra đời năm 1915, tại Vũng Liêm:

Bùi ông hỏi: Sao? Việc thi cử thế nào

Bùi Kiệm ca Tứ đại: Da thưa cha, con nay thi rớt trở về

Bùi ông ca tiếp: Kiệm à! Nghe qua tao tức tối trăm bề

Cũng tại bởi mày, sao ham bề vui chơi

Bùi Kiệm nói: Thưa cha! Tài bất thắng thời…

Bùi ông nói: Già đây nghe tiếng nỉ non…

(trích trang 85 sách đã dẫn)



Những tác động sân khấu Pháp vào giới trí thức văn nghệ sĩ, đã hình thành sân khấu cải lương. Từ 1910 ca nhạc tài tử, đến năm 1914 ra đời trò diễn carabộ, tiền thân sân khấu cải lương. Tại các tỉnh Nam Bộ có nhiều ban carabộ như AndreThận, Hội Lương Hữu, Phán Nhuận, Năm Tú… Hầu hết các ban tài tử doanh thu trước đây, chuyển sang diễn carabộ. Trò diễn carabộ thời bấy giờ là một hình thức sân khấu mới được công chúng hào hứng đón xem, tiếng đồn tới mọi miền đất nước. Vào năm 1919, nhiều gánh carabộ ra Bắc diễn như Sáu Súng, Phước Hội… quảng cáo diễn cải lương nhưng lại diễn carabộ và tuồng cổ, chưa có cải lương. Tại sao những gánh carabộ mượn danh cải lương quảng cáo, vì carabộ đã phải nhường chỗ cho sân khấu cải lương ra đời vào năm 1918. Nghệ thuật cải lương mới hấp dẫn, nhưng chỉ một số đoàn có vở cải lương, còn hầu hết các đoàn chỉ diễn carabộ, họ coi đó là cải lương, sau một thời gian bị mất khán giả phải về Nam. Công chúng biết đến sân khấu cải lương, coi carabộ là một trò diễn sân khấu đã cũ, buộc các đoàn phải diễn cải lương mới có doanh thu. Đó là điều kiện ra đời sân khấu cải lương, bao gồm các nguyên nhân:



- Cải cách hát bội trước đòi hỏi của công chúng.

- Sự phát triển ca nhạc tài tử, ca nhạc biểu diễn doanh thu có tính sân khấu.

- Trò diễn carabộ phát triển thành một lớp diễn sân khấu cải lương.

Những bước phát triển ca nhạc tài tử kết hợp với trò diễn carabộ, sau một thời gian phát triển đã ra đời sân khấu cải lương.



II. Sự ra đời sân khấu cải lương



1. Nguồn gốc thuật ngữ carabộ và cải lương



Một quan niệm, nhận thức phổ biến của giới nghiên cứu và công chúng sân khấu cho rằng những thuật ngữ: carabộ, cải lương, do giới cải lương đặt tên cho bộ môn sân khấu mới ở Nam Bộ được công nhận như một chân lý tuyệt đối. Nhưng mỗi thuật ngữ ra đời xuất phát từ cơ sở xã hội thiết lập nên khái niệm ngôn ngữ, ngữ nghĩa, bởi mỗi khái niệm ngôn ngữ ẩn chứa nội dung phát triển, miêu tả cái mới. Khái niệm ngôn gữ có nguồn gốc cơ sở cấu trúc miêu tả bên ngoài và bên trong của nội dung mỗi khái niệm đơn luận. Mỗi khái niệm thường có hai thành phần, khái niệm định nghĩa và đặc trưng nội dung của cái được định nghĩa. Những điều ấy, xuất phát từ hoạt động thực tiễn của con người, là chủ thể sáng tạo ra khái niệm ngôn ngữ, nên cần tìm lại nguồn gốc một số thuật ngữ sân khấu cải lương để khẳng định thêm những điều đã biết và những cái lịch sử có trách nhiệm phát hiện.



Nguồn gốc thuật ngữ carabộ và cải lương tất nhiên là quyền sử dụng của giới sân khấu, nhưng ai là người đặt tên những khái niệm ấy liệu có phải là giới sân khấu? Nhiều tư liệu đã dẫn những thuật ngữ ấy không phải của giới sân khấu, nhưng không hiểu sao mọi người cứ quên đi, áp đặt là do giới sân khấu sáng tạo ra. Thuật ngữ carabộ hoặc hát bộ… xung quanh chữ bộ. Các nhà nghiên cứu cải lương đều trích dẫn lẫn nhau, ông Vương Hồng Sến hay dẫn lời của ông Trần Văn Khải, hoặc một số nhà báo thời trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tới nay các công trình nghiên cứu cải lương chỉ có thể dựa vào ba nguồn tư liệu, một là các báo, tạp chí trước cách mạng có tính khách quan. Hai là tham khảo các công trình đã công bố của các nhà nghiên cứu cải lương lão thành. Ba là hỏi lại các nghệ nhân còn sống để đối chiếu các nguồn tư liệu, so sánh, loại trừ và khẳng định cái đích thực.



Theo ông Vũ Đào trong cuốn sơ thảo lịch sử sân khấu cải lương trang 24 viết: “Cô Ba Đắc ca rất hay, mà cô có cái tài đặc biệt về lối “đại lang dặm”, Bùi Kiệm dặm thêm nhiều câu trớ trêu nghe tức cười. Ban đầu cô ngồi nói, sau có người biểu cô: “nói có ra bộ mới hay”. Nhờ rạp hát bóng có sân khấu rộng rãi, cô đứng ra bộ”. Qua tư liệu đã dẫn chữ bộ do quần chúng sử dụng chứ không phải do giới cải lương nghĩ ra, nhưng còn nhiều tư liệu thời ấy chứng minh chữ bộ, carabộ, do các ký giả, là nhà báo viết trên báo. Theo ông Vương Hồng Sến trong cuốn Hồi ký 50 năm mê hát, trang 32 viết: “Cô Ba Đắc ca bài Tứ đại oán với giọng gần như đối đáp, nhưng cô không ra bộ. Sau về nhà ông Phó Mười Hai, nảy ra ý kiến cho người ca đứng trên bộ ván tứ có ra bộ. Điệu carabộ phát sinh từ lối năm 1915 - 1916”. Qua ông Vương Hồng Sến, khẳng định carabộ ra đời năm 1915 – 1916, theo nhiều nguồn tư liệu khác cho rằng carabộ ra đời năm 1914, đây là dấu mốc xác định theo nhiều ý kiến giống nhau, có thể khẳng định người sáng tạo ra trò diễn carabộ là ông Phó Mười Hai.



Qua so sánh, tham khảo nhiều tư liệu của các báo, tạp chí trước cách mạng, các nhà nghiên cứu cải lương lão thành, có thể khẳng định nguồn gốc thuật ngữ carabộ, hát bộ… do các nhà báo sử dụng khái niệm: carabộ, viết gần với tiếng Pháp là carabo, lúc đầu họ kêu gọi mọi người bỏ chữ hát bội thay bằng hát bộ. Sau đó, gọi là hát có ra bộ và chuyển thành carabộ (carabo).

Quá trình ra đời sân khấu cải lương là quá trình hình thành, phát triển nhiều yếu tố, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân bên trong nẩy sinh ra nghệ thuật cải lương. Hai chữ cải lương đến nay còn nhiều cách giải thích khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng lấy từ hai chữ đầu của hai câu thơ:



Cải cách hát ca theo tiến bộ

Lương truyền tuồng tích sách văn minh.



Hai câu thơ này do hai ông Nguyễn Quốc Biểu, Lâm Hoài Nghĩa viết thành hai câu đối treo trước cửa rạp đường Yecxanh, Sài Gòn năm 1920, theo báo Nông cổ mín đàm đăng ngày 19 – 7 – 1917 số 38, gọi các ban hát diễn tuyên truyền cho chiến dịch Pháp Việt hữu hảo là “cuộc hát cải lương”[7], ông Lương Khắc Ninh có ban hát bội, là chủ bút tờ Nông cổ mín đàm ra đời năm 1901 là tờ uống trà nói chuyện về nông nghiệp, số ra ngày 21 – 8 – 1917, đã vạch trần những vở diễn của các ban hát lúc ấy, chỉ là hát bội cải biên, không phải hát cải lương. Lại theo báo Nông cổ mín đàm ra ngày 28 – 3 – 1917 viết: “ở Sài Gòn 1905 có diễn thuyết về Hí viện cải lương”, thêm một số nhà nghiên cứu lại dẫn vào năm 1918, ông Năm Tú, trương biển hiệu “Ban hát cải lương Châu Văn Tú”, ông coi đó là một phát minh thương hiệu của riêng mình, nghiêm cấm các ban hát khác không được lấy tên là: “cải lương…” Qua những tư liệu đã dẫn, khẳng định chắc chắn hai chữ cải lương không phải do ông Năm Tú tự nghĩ ra, càng không phải do ông lấy hai chữ đầu của hai câu thơ trên gọi là: “cải lương”. Hai chữ cải lương xuất hiện trên báo từ năm 1905, sau đó mọi người đã sử dụng quen thuộc, ông Tú chỉ lấy lại mà thôi. Đây là sự nhầm lẫn của hầu hết giới nghiên cứu và các nghệ sĩ chưa tìm hiểu hết tư liệu, nên vội cho rằng ông Năm Tú người nghĩ ra hai chữ cải lương là một phát minh khai sinh ra tên gọi sân khấu cải lương, hoặc lấy hai chữ đầu của hai câu thơ ghép lại thành tên: “Cải lương”.



Hai chữ cải lương ấy, bắt đầu du nhập vào nước ta do các nhà báo, các dịch giả viết giới thiệu trên các báo tuyên truyền cho những tư tưởng phương Tây, trong đó có tráo lưu triết học Chủ nghĩa cải lương (Reformisin). Hai chữ cải lương ra đời từ trào lưu triết học cải lương đã đăng nhiều trên báo trước năm 1905, đến năm 1918, ông Năm Tú lấy lại hai chữ cải lương là thuật ngữ của các nhà báo, dịch giả đã sử dụng. Nhưng nhờ có ông lấy hai chữ cải lương đã trở thành tên gọi, cho một thể loại sân khấu đặc sắc của Nam Bộ. Ông là người đặt tên cho sân khấu cải lương. Chữ cải là luôn cải cách, tiếp nhận các hình thái nghệ thuật đương đại. Chữ cải là luôn cải tiến, cải biến làm mới cái hiện có, chữ lương để nó được lưu truyền trong công chúng, nếu không cải tiến sẽ không lương truyền. Hai chữ cải lương thành tên gọi riêng của một hình thức sân khấu Nam Bộ, hiện nay còn nhiều giả thiết về sự ra đời sân khấu cải lương. Nhưng qua những tư liệu đã dẫn, khẳng định nguồn gốc thuật ngữ carabộ, cải lương là thuật ngữ sử dụng của các dịch giả, các nhà báo, đã sử dụng trước giới sân khấu cải lương.



2. Sự ra đời sân khấu cải lương



Sự ra đời sân khấu cải lương là quá trình hình thành, phát triển nhiều yếu tố bên trong, bên ngoài để ra đời một hình thức sân khấu đặc sắc, bản địa Nam Bộ. Nhìn lại qua trình hình thành sân khấu cải lương kết tinh từ sự đổi mới nền kinh tế, chính trị xã hội tạo ra lớp công chúng văn hoá đô thị. Những phong trào cải cách xã hội, văn hoá nghệ thuật, dẫn đến sự cải cách hát bội, cải cách ca nhạc tài tử ra đời nhiều hình thức trình diễn ca nhạc trong đó có một trào lưu ca nhạc tài tử phát triển thành một hình thức ca nhạc sân khấu cải lương.



Trước đây nhiều nhà nghiên cứu sân khấu cải lương cho rằng ca nhạc tài tử có nguồn gốc ca nhạc Bắc, từ cái nôi dân ca văn hoá sông Hồng di cư vào Nam. Nhưng mới đây các nhà nghiên cứu âm nhạc Nam Bộ, Lư Nhật Vũ, Thế Bảo… đã chứng minh dân ca Nam Bộ có thang âm điệu thức riêng khác với thang âm điệu thức dân ca Bắc Bộ. Trong công trình “Dân ca Hậu Giang”, các tác giả: Lê Giang, Lưu Nhất Vũ, Văn Hoà, Minh Luân, đã chứng minh các điệu thức dân ca Nam Bộ có sử dụng loại điệu thức thang âm bốn, năm âm, nhưng cấu trúc thang âm khác điệu thức bốn năm âm dân ca Bắc Bộ. Đặc điểm thang năm âm dân ca Bắc Bộ thường thấy là: đồ rề pha son la đố, thang bốn âm : rề pha son la rế … Những thang âm các bài dân ca Nam Bộ cấu trúc thường thấy: là si rê mi pha(#) lá, thang bốn âm: sì mi pha# son# sí, hoặc đồ pha son la đố… Đây là những thang âm đặc trưng khác biệt của cấu trúc âm nhạc dân ca hai miền. Qua đó, khẳng định ca nhạc tài tử bắt nguồn từ dân ca Nam Bộ, có cấu trúc riêng của giòng âm nhạc dân gian bản địa, không có nguồn gốc dân ca Bắc Bộ, dân ca Huế. Thực tiễn vốn bài bản cải lương hiện nay tồn tại nhiều bản nhạc Huế, nhạc Bắc, nhạc Tầu… chỉ là sự tiếp nhận những bản nhạc mới vào bài bản cải lương theo hướng cải lương hoá các bản nhạc ngoại lai, không coi đó là ca nhạc tài tử cải lương có nguồn gốc từ những bản nhạc ấy. Những công trình nghiên cứu âm nhạc dân ca Nam Bộ, làm sáng tỏ tính chất dân tộc bản địa của ca nhạc tài tử cải lương. Sự ra đời sân khấu cải lương có bốn giả thiết:



- Giả thiết thứ nhất, theo tờ Tạp chí Đông Dương ra ngày 21-9-1937, viết: “vào năm 1918, tại cuộc hoà nhạc ở nhà ông Tống Hữu Định ở Vĩnh Long, cô Ba Đắc ca lớp Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga, cải lương ra đời từ đấy”. Những người theo thuyết này, coi trò diễn carabộ của ông Tống Hữu Định là sân khấu cải lương? Đây chỉ là trò diễn carabộ, bước đầu hình thành sân khấu cải lương.

- Giả thiết thứ hai, theo ông Đặng Thu Liếng đăng trên tờ Dân mới ngày 12-4-1939, tóm tắt quá trình ra đời sân khấu cải lương từ ca nhạc tài tử đến carabộ, tiến lên sân khấu cải lương.

- Giả thiết thứ ba, các ông Vuơng Hồng Sến, Vũ Đào… cho là từ phong trào Quốc trái diễn cải lương đến gánh hát ông Năm Tú, phát sinh ra hình thức sân khấu cải lương.

- Giả thiết thứ tư, do sự đòi hỏi của lớp công chúng đô thị, thị dân có nhu cầu thẩm mỹ mới từ cải cách hát bội, diễn tuồng theo cách nói lối, có đối thoại, ca ngâm dần tiến hoá chuyển sang sân khấu cải lương.



Qua bốn giả thiết có thể khẳng định sân khấu cải lương ra đời là một quá trình hình thành, phát triển từ:



- Một bộ phận ca nhạc tài phát triển lên trò diễn carabộ

- Phong trào cải cách hát bội, diễn tuồng pha cải lương

- Sự ủng hộ nhiệt tình của công chúng, báo chí, các tác giả, nghệ sĩ đã ra đời sân khấu cải lương.



Sự ra đời sân khấu cải lương, số đông các nhà nghiên cứu thống nhất vào ngày 15-11-1918, hoặc năm 1918 là năm ra đời sân khấu cải lương. Có hai ý kiến cho rằng sân khấu cải lương ra đời năm 1919, sau khi so sánh nhiều nguồn tư liệu tôi đồng tình với nhận định của các nhà nghiên cứu và giới báo chí Sài Gòn lấy năm 1918 xuất hiện nghệ thuật cải lương. Người đầu tiên trương biển hiệu “hát cải lương” là ban ca kịch của ông Châu Văn Tú, ông luyện tập hai vở: Kiều Nguyệt Nga và Kim Vân Kiều, nhưng khi công diễn chọn vở Kim Vân Kiều. Người đầu tiên, phát minh ra trò diễn carabộ là cô Ba Đắc. Tác giả đầu tiên của trò diễn carabộ có tính cải lương là ông phó Mười Hai. Tác giả đầu tiên có vở diễn cải lương diễn trọn tác phẩm Kim Vân Kiều, ba đêm mới hết là ông Trương Duy Toản. Phải nói bốn người có công đầu tạo nên sân khấu cải lương là: cô Ba Đắc, ông phó Mười Hai, ông Năm Tú (Châu Văn Tú) và tác giả Trương Duy Toản.



Trước lúc ra đời sân khấu cải lương có ba năm diễn carabộ, diễn tuồng cải biên gần với cải lương như ngày nay ta thường gọi là cải luơng tuồng cổ với hàng loạt các vở: Vì nghĩa quên nhà của Hồ Biểu Chánh, Pháp Việt nhất gia, Gia Long phục quốc… vào năm 1917 tại Nhà hát Tây trên đường Catina Sài Gòn. Những vở hát bội cải biên theo báo Nông cổ mín đàm ra ngày 19-11-1917, lúc đầu diễn đối thoại như diễn kịch, không có hát Nam, hát Khách, “hát tuồng comédie mà răn đời”. Lại trên báo này, hai ông Nguyễn Viên Kiểu và Đặng Thúc Liêng viết “Soạn giả viết toàn văn biền ngẫu, đào kép chỉ nói lối khi thì qua điệu Ai, khi lại trở xuân”… Đến đoạn trích này, sự cải biên hát bội đã trở thành diễn cải lương tuồng cổ. Sự cải cách hát bội qua hai giai đoạn thử nghiệm, giai đoạn một, diễn tuồng hát bội pha kịch nói từ năm 1915 đến năm 1917, giai đoạn hai diễn tuồng pha cải lương từ năm 1917 đến năm 1918. Đây là điều kiện đầu tiên để các soạn giả viết kịch bản cải lương và dàn dựng theo lối diễn cải lương, lúc ấy chưa ai đặt tên là cải lương tuồng cổ, mà gọi là hát bội cải biên. Một số nhà báo gọi là “cuộc hát cải lương” liền bị phê phán là diễn tuồng cải biên không phải hát cải lương. Những vở hát bội cải biên đầu tiên ấy, đã để lại cho sân khấu cải lương hôm nay có hai giòng hát cải lương: một là cải lương tuồng cổ, hai là cải lương đương đại. Sự ra đời sân khấu cải lương năm 1918 tại Mỹ Tho, là sự giải thoát những bế tắc, luẩn quẩn của sân khấu, văn hoá nghệ thuật, giải toả những bức xúc xã hội ở Nam Kỳ, có ý nghĩa nêu cao tinh thần dân tộc tự chủ. Vào thời gian 1917 đến 1945, nhiều ban hát cải lương diễn các loại cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại. Giòng hát cải lương tuồng cổ có gánh Khánh Hồng – Minh tơ ở Sài Gòn thành lập năm 1960, diễn tuồng Tầu pha cải lương, đến năm 1975 đổi tên là Đoàn Cải lương tuồng cổ Minh Tơ. Thuật ngữ “cải lương tuồng cổ” ra đời từ đấy, vào năm 1975, gắn với tên nhà hát. Sau đoàn Minh Tơ, có đoàn Huỳnh Long diễn cải lương cổ.


[1] Theo trang 126 – 127 Giáo trình Lịch sử – Trường Trung học Lưu trữ 1996.

[2] Theo trang 226 – 228, đưa theo cuốn Tiến trình lịch sử Việt Nam – NXB Giáo dục, 2001.

[3] Theo trang 226 – 228, đưa theo cuốn Tiến trình lịch sử Việt Nam – NXB Giáo dục, 2001.

[4] Theo sách đã dẫn, trang 254.

[5] [1] Trích trang 27. Hồi ký 50 năm mê hát – Vương Hồng Sến. NXB Phạm Quang Khải – Sài Gũn – 1968.

6Trích trang 83. Nghệ thuật sân khấu Việt Nam – NXB Khai Trớ – Sài Gòn– 1970.

[7] Trích trang 29 – Lịch sử báo chí Việt Nam – Nxb ĐHQG Hà Nội
Tuấn Giang


Lịch sử cải lương 2
Tuấn Giang

III. ý nghĩa ra đời sân khấu cải lương



1. Giải thoát người phụ nữ



Nghệ thuật là phương tiện truyền thông một kênh, truyền đạt thông tin, miêu tả, pha trộn, hoặc không miêu tả, sử dụng kí hiệu bên ngoài diễn tả cảm xúc bên trong con người. Nghệ thuật miêu tả là lĩnh vực sáng tạo của người diễn viên, không có sự phong phú về phương tiện chất liệu cấu trúc hình tượng không gian, thời gian mà tính chất động của diễn viên tạo ra hình tượng nghệ thuật. Hình tượng ấy truyền cảm lay động hàng triệu công chúng, thấm sâu vào ấn tượng mỗi con người tạo ra sức mạnh vật chất, ở đó là những diễn đàn xã hội cuốn hút và hấp dẫn. Với chức năng truyền thông đặc biệt, sự ra đời sân khấu cải lương là một diễn đàn thông tin văn hoá xã hội.

Sân khấu cải lương xuất hiện như một diễn đàn giải thoát người phụ nữ, trong các hình thái, loại thể nghệ thuật thì sân khấu cải lương có tính truyền thống trong từng vở diễn chỉ miêu tả, phản ánh thân phận người phụ nữ. Dù hôm nay sống trong thời đại văn minh, tính nhân văn trong con người được đề cao, nhấn mạnh toả sáng đến mọi nơi, sân khấu cải lương vẫn miêu tả thân phậm người con gái; hình như cái thiện và cái ác lúc nào cũng đồng hành khi cái thiện đề cao, cái ác ít xuất hiện, nhưng đã xuất hiện thì tính huỷ diệt tàn khốc hơn. Trở lại cái đêm trường phong kiến thực dân những năm đầu thế kỷ XX, sự ra đời sân khấu cải lương là lối thoát cho người phụ nữ, ở đó họ phơi bầy cái phi lý trói buộc con người, kêu gọi mọi người cải cách xã hội, đầu tiên cải cách đời sống hay cuộc sống người phụ nữ, họ có quyền dân chủ và bình đẳng. Người phụ nữ có quyền lựa chọn cuộc sống của mình, phá bỏ các hủ tục vô lý của xã hội phong kiến, tố cáo, lên án và hành động tự giải thoát như các vở: Kim Vân Kiều, Cô ba lưu lạc, Đoá hoa rừng, Tô ánh Nguyệt, Chị chồng tôi, Đời cô Lựu, Ngọn cờ hiệp nữ… sân khấu cải lương góp phần giải thoát người phụ nữ, tạo dư luận xã hội mạnh mẽ công phá bức tường lễ giáo phong kiến, tiếp nhận quan hệ xã hội mới để người phụ nữ làm chủ cuộc sống. Sự ra đời sân khấu cải lương như một điểm sáng mở đường phát triển văn hoá nghệ thuật, kế thừa truyền thống văn hoá nghệ thuật dân tộc, tiếp thu tinh hoa nền văn hoá nghệ thuật dân chủ mới. Đây như một phương châm, nguyên lý phát triển nghệ thuật dân tộc, là bài học cho hôm nay hướng phát triển nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại. Sân khấu cải lương Nam Bộ là đặc phẩm văn hoá sân khấu Nam Bộ và các vùng miền, đáp ứng nhu cầu công chúng các đô thị. Bởi đô thị là những điểm sáng dân cư, nơi tập hợp lớp người mới sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại, nơi đầu mối giao thông, kinh tế đa ngành, là nơi phát triển phong phú, tạo ra quy luật hoạt động tồn tại. Sân khấu cải lương xuất hiện đáp ứng những bức xúc xã hội là quá trình cải cách văn hoá nghệ thuật, lòng dân mong muốn có một hình thức sân khấu, mang tinh thần thời đại, tâm lý, tình cảm con người mới. Giá trị của sân khấu cải lương là sự xuất hiện một hình thức sân khấu mới, để mỗi miền có một đặc phẩm sân khấu dân tộc, bản địa, Miền Bắc có chèo, Miền Trung có tuồng, Nam Bộ có cải lương. Ba hình thức sân khấu này, dù có ảnh hưởng pha trộn tràn lan thì vẫn là đặc phẩm sân khấu ba miền. Cái gốc tuồng Bắc khi vào Nam đã trở thành tuồng Nam, dù cải lương có phát triển đến mọi miền đất nước thì cải lương Nam Bộ vẫn là một đặc phẩm sân khấu Nam Bộ. Cải lương hay các hình thái nghệ thuật nào khác, dù phát triển tới đâu đi ra ngoài biên giới mỗi quốc gia, dân tộc, nó mang những đặc tính chung và dáng vẻ riêng mỗi vùng miền, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ công chúng.



2. Đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ mới



Những bước phát triển ca nhạc tài tử đơn lẻ một hai nghệ nhân đàn ca bên chén rượu, vui bạn bè đến sự ra đời các ban đàn ca tài tử là từng bước đáp ứng thẩm mỹ công chúng.



Công chúng đòi hỏi mỗi hình thức nghệ thuật phục vụ một nhu cầu thẩm mỹ, ca nhạc tài tử đã tiến hoá từ dân gian lên chuyên nghiệp tiến đến sự liên kết trò diễn carabộ, ra đời sân khấu cải lương một bước chuyển hoá thẩm mỹ nghệ thuật. Sự xuất hiện xã hội đô thị, lớp người mới là sự biến đổi xã hội, biến đổi thẩm mỹ nghệ thuật. Những biến đổi ấy tạo sự xuất hiện cái mới, cái mới ra đời từ sự biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội là một quy luật, khi xã hội ổn định nhất chỉ là sự ổn định bên ngoài có tính tạm thời, còn nội dung bên trong xã hội đang vận động biến đổi. Trong xã hội hiện đại toàn cầu hoá sự biến đổi ngấm ngầm và bộc lộ nhanh hơn, nếu ngày xưa các thanh niên mặc quần loe, tóc dài, quần bó… là sự vận động biến đổi, ngày nay họ mặc quần lửng, tóc nâu, vẽ móng… là đang biến đổi. Những biến đổi ấy đòi hỏi thẩm mỹ mới, thẩm mỹ mới nằm trong quy luật biến đổi xã hội chưa biết đúng hay sai nhưng đó là sự vận động của xã hội. Nhờ sự vận động ấy xã hội phát triển và xuất hiện nhu cầu mới, mà biến đổi xã hội phá bỏ những khuôn mẫu, các quan hệ xã hội, các hệ phân tầng tổ chức cấu trúc xã hội, kinh tế và các cá nhân thay đổi theo thời gian. Sự thay đổi ấy, xuất hiện những đòi hỏi mối quan hệ mới, cấu trúc mới, sân khấu cải lương Nam Bộ ra đời trong sự kìm hãm bảo thủ của xã hội phong kiến, sự xuất hiện cái mới của chế dộ thực dân có mối quan hệ mới, sức sống mới. Sân khấu cải lương đáp ứng thẩm mỹ mới của công chúng như sự chung hoà, hoà hợp giữa truyền thống với hiện đại. Một mặt công phá xã hội phong kiến phá bỏ hủ tục, tiếp nhận cái mới, nhưng không vọng ngoại mà mang tính tiểu tư sản phong kiến và dân chủ. Nghệ thuật cải lương đáp ứng nhu cầu cải cách xã hội, chứ không phá bỏ những mực thước đạo lý truyền thống. Cải lương xuất hiện như một cái đẹp thiện tốt, thống nhất thẩm mỹ với đạo đức hoàn thiện thể chất, tinh thần lớp người mới. Vì cái cốt lõi ấy, là một hình thức nghệ thuật mới, thẩm mỹ mới, sân khấu cải lương nhanh chóng phát triển rộng khắp Nam Bộ, có hàng trăm ban hát ra đời, doanh thu cao. Đó là điều kiện hốt bạc, cứu sống nhiều nghệ sĩ, làm giàu cho các bầu chủ, nhưng đã khai sáng một giòng văn hoá nghệ thuật đặc biệt đáp ứng công chúng mong đợi sân khấu cải lương.



Sân khấu cải lương ra đời đáp ứng công chúng một cái đẹp tổng hợp của sân khấu ca kịch, đặc biệt là hình thức thẩm mỹ âm nhạc ca hát, múa, trong đó bài Vọng cổ như một ma lực làm mọi người thoả mãn sân khấu cải lương. Đó là sự đổi mới phát triển văn hoá xã hội Nam Bộ.



3. Phát triển văn hoá, nghệ thuật bản địa Nam Bộ



Những biến đổi xã hội siêu hữu cơ của thời đại công nghiệp xâm nhập vào mảnh đất Nam Bộ đã đẩy nhanh sự phát triển văn hoá nghệ thuật, sớm ra đời nhiều loại thể nghệ thuật mới. Đó là xuất hiện những phạm trù thể thay đổi cấu trúc của một loại hình, vì sự sáng tạo nghệ thuật đáp ứng thẩm mỹ công chúng.

Những yêu cầu đổi mới nghệ thuật của công chúng là nguyên nhân thúc đẩy ca nhạc tài tử tiến nhanh, trở thành thể loại ca nhạc bài bản cải lương. Quá trình ấy, vô tình tham gia vào sự phát triển văn hoá, nghệ thuật bản địa Nam Bộ. Vì xã hội là sự tiến hoá siêu hữu cơ, nên các mặt văn hoá nghệ thuật sớm ra đời nhiều hình thức loại thể mới. Ca nhạc tài tử xuất hiện từ năm 1890, đồng hành với những người phương Nam đi lập nghiệp từ thế kỷ XIII, nhưng đến năm 1910 mới có các ban nhạc phong tục, nhạc lễ xuất hiện phổ biến ở Nam Bộ, đáp ứng nhu cầu các mặt phát triển văn hoá tâm linh, vui chơi giải trí. Năm 1912, nhạc tài tử biểu diễn doanh, năm 1914 carabộ, năm 1918 ra đời sân khấu cải lương và nhiều hình thái nghệ thuật khác. Sự phong phú ấy, khẳng định xã hội Nam Bộ có nhiều hình thức nghệ thuật đáp ứng các đối tượng công chúng. Sân khấu cải lương một biểu hiện sinh hoạt văn hoá mới, mang đến công chúng nền âm nhạc dân ca, dân tộc bản địa Nam Bộ, từng bước đưa vào các hình thức âm nhạc đương đại nhạc Tầu, nhạc Tây vào cải lương. Đó là phần âm nhạc, còn giá trị văn học, kịch bản cải lương đem lại những giá trị văn học dân gian, cổ điển Việt Nam, hướng mọi người ăn ở nhân nghĩa, đôn hậu thủy chung, đưa vào công chúng những quan niệm sống mới, tác động họ tiến nhanh cải tạo xã hội. Sân khấu cải lương đã giới thiệu các loại tác phẩm giá trị dân gian, cổ điển và đương đại của nền văn học Trung Hoa, văn học Pháp và một số nước phương Tây. Sân khấu cải lương là cầu nối giữa hai nền văn hoá Đông Tây, góp phần phát triển văn hoá đương đại, bảo tồn văn hoá truyền thống Việt Nam, văn hoá nghệ thuật bản địa Nam Bộ. Sân khấu cải lương một sản phẩm văn hoá thẩm mỹ, văn hoá nghệ thuật. Nghệ thuật cải lương xuất hiện bộc lộ sự hưng phấn của công chúng như trào lưu ca nhạc nhẹ những năm 90 của thế kỷ XX, thấm sâu vào ý thức con người trong thế giới siêu sinh học các đối tượng và giải đối tượng. Đó là cái sân khấu cải lương đạt tới hành động là một sản phẩm văn hoá thẩm mỹ, mang đặc trưng tính chất văn hoá thẩm mỹ vật chất và nghệ thuật tinh thần. Sân khấu cải lương ngày ấy, nằm trong cấu trúc xã hội dưới các hình thức hoạt động sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật, khác với ngày nay ta cứ hô hào xã hội hoá hàng chục năm mà Miền Bắc chưa có hướng tồn tại trong cơ chế là một sản phẩm văn hoá nghệ thuật thị trường. Một sản phẩm văn hoá nghệ thuật thị trường cần tồn tại bằng sự nuôi dưỡng của công chúng giữ gìn và truyền bá, nghiên cứu khoa học và giáo dục nghệ thuật. Ngay từ khi ra đời sân khấu cải lương đã có vị trí, vai trò là một sản phẩm văn hoá nghệ thuật, làm phong phú đời sống tinh thần xã hội, do nhân dân nuôi dưỡng.



Sân khấu cải lương ra đời làm phong phú nền văn hoá, nghệ thuật sân khấu Việt Nam đa hình thức thể loại. Sự hội tụ tinh hoa văn hoá, nghệ thuật đương đại vào sân khấu cải lương, giúp nó phát triển nhanh trên mọi miền đất nước có quá trình hình thành từ ca nhạc tài tử, tiến lên trò diễn xướng dân gian carabộ, một người độc diễn, đến một lớp diễn cải lương có ba nhân vật ca diễn, đối thoại. Sau ba năm, ra đời hai kịch bản đã công diễn là một thể loại sân khấu cải lương. Bên cạnh sự phát triển một chiều hình thành các bài bản cải lương có độ chín cho ra đời sân khấu cải lương, bước cải cách hát bội đã bổ xung vốn làn điệu cải lương giá trị là hình thức nói lối. Nói lối là cầu nối âm nhạc gắn kết mọi làn điệu cải lương và những lời đối thoại, sau này thêm ca nhạc mới. Nói lối là hình thức âm nhạc đặc sắc tiêu biểu cho tính chung hoà của cải lương, các hình thức tuồng chèo có nói lối nhưng thiếu mô hình mở để chắp nối các hình thức âm điệu khác nhau có tính li điệu như cải lương. Giá trị của cải cách hát bội sau ba năm đã hợp thành sân khấu cải lương, ra đời sân khấu cải lương tuồng cổ, sân khấu cải lương đương đại. Hai hình thức cải lương tuồng cổ và đương đại, đáp ứng hai nhu cầu thẩm mỹ văn hoá truyền thống nho giáo Việt Nam và văn hoá tân thời. Vì những ý do ấy, sân khấu cải lương mới ra đời nhanh chóng phát triển tới mọi miền đất nước, do công chúng nuôi dưỡng trong bầu không khí thời đại mới.



Chương II



Sự phát triển sân khấu cải lương

từ 1919 đến 1930





I. Những ban hát cải lương mới ra đời



Ngày đầu ra đời sân khấu cải lương diễn đông khách, doanh thu cao, nhưng nhiều ban hát carabộ chưa thể diễn cải lương vì thiếu vở diễn, cảnh trí trang trí, phục trang nhân vật… nên các ban hát thường diễn carabộ, tạp kỹ. Năm 1919 Ban Sáu Súng ra Hà Nội đi các tỉnh Bắc Giang, Việt Trì, Nam Định, mỗi đêm diễn carabộ hát các điệu Oán, Phú lục, Kim tiền… ca đến đâu diễn điệu bộ minh hoạ lời ca. Sau đó, các ban Tân Thinh, Phước Hội diễn một trò diễn carabộ có nhiều người tham gia vào từng vai diễn như Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên… là những trò diễn nhỏ. Sau gánh ông Năm Tú có hai vở cải lương, các ban hát carabộ chưa có vở diễn, họ tiếp tục diễn carabộ với xiếc tạp kỹ, hoặc hoạt cảnh carabộ, ca bài lẻ…



Vào đầu 1919, diễn carabộ khó tồn tại, ông Andre Thận chủ gánh carabộ, ra đời từ năm 1914 tại Sa Đéc, lưu diễn nổi tiếng trên Sài Gòn nay bán trọn gói cho ông Năm Tú với nhiều đào, kép lừng danh như Hai Cúc, Tư Hương, danh cầm Ký Quờn, Phán Nhuộm… Ban hát bộ của ông Thận vang danh khắp lục tỉnh Nam Bộ với các hoạt cảnh diễn có hoá trang, phục trang như một trích đoạn cải lương, thêm vào đó các tiết mục xiếc đi dây, phi dao quanh người, đu bay… Cuối cùng đã trở thành nhàm chán trước công chúng, đổ vỡ doanh thu, ban không tồn tại. Ban hát nổi tiếng rơi vào tay ông Năm Tú, có lực lượng diễn viên mới, ông Trương Duy Toản viết thêm các vở Trang tử cổ bồn, Kiều gặp Kim Trọng, Kiều Hoạn Thư, Nhị độ mai, lớp Hạnh Nguyên cống Hồ… diễn từ Mỹ Tho lên Sài Gòn, ở đâu cũng được công chúng nồng nhiệt chờ xem. Sau ông Năm Tú đến giữa năm 1919, có các ban Nam Đông, Tân Phước Nam, Đồng bào Nam, Tân Hưng. Cả Nam Bộ có khoảng năm ban cải lương, còn lại các ban carabộ sống vất vưởng ở các vùng xa Miền Trung, Cao Lãnh, Tây Ninh… Cuối năm 1918, đầu năm 1919, hát cải lương chỉ có tác giả Trương Duy Toản viết các vở cải lương tuồng cổ. Nội dung các vở cải lương dựa theo những truyện văn học dân gian, cổ điển Việt Nam và Trung Hoa, hầu hết là những câu truyện tình đề cao đạo đức hiếu nghĩa, trung thuỷ, một phần phê phán người phụ nữ có tinh thần đổi mới.



Nội dung những vở cải lương từ năm 1918 đến 1919, còn đề cao giáo lý phong kiến, có tố cáo xã hội phong kiến chỉ là một phần làm tăng thêm sự thương tâm của công chúng với thân phận nhân vật. Cái giáo lý, hủ tục phong kiến chưa bị công phá mạnh mẽ, vở Trang tử cổ bồn còn có phần trói buộc người phụ nữ. Vở diễn, kể lại câu chuyện Trang Chu có người vợ hiền, hai người yêu nhau hẹn thề son sắc thuỷ trung. Một hôm Trang Chu cầm quạt đi dạo ngoài cánh đồng, thấy ngôi mả mới có một thiếu phụ ngồi quạt, nước mắt nỉ non. Trang Chu bước tới hỏi đầu đuôi câu chuyện chàng hiểu ra lời trăng trối của chồng người thiếu phụ có một yêu cầu, khi nào ngôi mộ khô người vợ sẽ được đi lấy chồng. Trang Chu là người có tài phân thân, phép thuật cao nhân, chàng liền quạt ba cái ngôi mộ đã khô ráo sạch sẽ. Thiếu phụ mỉm cười, cảm ơn Trang Chu, xin về nhà để cưới chồng mới. Trang Chu đem chuyện về kể cho vợ nghe, hai người thầm trách người thiếu phụ sớm vội bạc tình. Bỗng một hôm Trang Chu lăn ra chết, chàng chỉ kịp nói một câu là cho vào áo quan để ở trong phòng ngủ của hai người, sau năm ngày sẽ đem chôn. Người vợ kêu khóc thảm thiết, sang ngày thứ ba có hai thày trò ở đâu đến xin học thày Trang Chu, vợ chàng nói chồng mới mất, hai người vào thắp hương và xin ở lại để học cái đức của thày, chị vợ không đồng ý. Nhưng sự nài nỉ của chàng trai làm thiếu phụ siêu lòng, sang ngày hôm sau chị vợ thấy yêu chàng trai nọ, nên đã ngỏ lời nhưng bị từ chối vì tình thày trò, thày mới mất, không được vi phạm vào đạo đức thày trò. Thiếu phụ tìm mọi cách lý giải để đi đến xe duyên vợ chồng, chàng trai đồng ý chờ nàng hết tang chàng sẽ tổ chức hôn lễ. Đột nhiên đến ngày hôn ước, chàng trai bị đau bụng, đau đớn khủng kiếp, không thể tổ chức hôn uớc được, nàng lo lắng không có thuốc nào chữa khỏi bệnh cho chàng. Nàng khóc đỏ hai mắt rồi hỏi chàng trai: bây giờ làm gì chữa khỏi bệnh? Chàng nói: chỉ có một cách lấy lá gan của người chồng trước ăn vào sẽ khỏi. Nhe xong, nàng săm săm cầm dao xông vào phòng, đập vỡ quan tài, nắp quan tài vừa bật ra, Trang Chu ngồi dậy chép miệng. Nàng ngượng quá, chạy ra nhà ngoài thì chàng trai nọ và người hầu kia đã không còn nữa. Đó là thuật phân thân của Trang Chu. Biết trúng kế của chồng, nàng tự tử, còn Trang Chu đốt nhà bỏ đi. Sau nhiều năm, mọi người đã quên chuyện cũ, thì trên cái nền nhà ấy mọc lên một ngôi chùa, có chú tiểu trông coi, đó là Trang Chu.



Qua câu chuyện Trang tử cổ bồn, phê phán người phụ nữ, ngầm đề cao giáo lý phong kiến, vở diễn lấy chốn thiền sư làm chỗ dựa tâm linh cho những tình cảm bi thương để an ủi phần hồn con người. Những cái mới như chớp bể mưa nguồn, bình minh hé sáng còn ở xa tác giả, Những vở cải lương tuồng cổ mới ra đời sân khấu cải lương còn quẩn quanh luyến tiếc giáo lý phong kiến, chưa hướng theo tư tưởng tiến bộ văn minh.



1. Những ban hát cải lương năm 1919



Ban hát đầu tiên là ban hát cải lương Năm Tú, có tác giả Trương Duy Toản viết kịch bản cải lương. Ban có nhiều diễn viên nổi tiếng từ các ban carabộ về hát cải lương .

Ban hát cải lương Năm Tú, nguồn gốc ra đời từ Ban carabộ của ông Andre Thận năm 1914, đến năm 1918 ông Năm Tú mua lại toàn bộ ban hát ông Thận, đổi tiên là Ban hát cải lương Năm Tú, đào kép có: Bảy Thông, Tám Cang, Hai Diêu, Năm Thoàn, Hề Chín Phót, Ba Đắc, Hai Cúc, Cô Tư Hương… Các vở diễn có phục trang theo nhân vật, mang tính hiện thực lịch sử. Trang trí sân khấu tả thực, có hai hình thức, một là vẽ phông cảnh theo nhạc kịch opera, đến cảnh nào thả phông xuống, sang cảnh mới chuyển cảnh cũ kéo lên, hai là đem cây cảnh thật lên sân khấu.



Ban hát Năm Tú là ban đầu tiên ra đời sân khấu cải lương, kịch bản, phục trang, trang trí mỹ thuật tả thực, có khi là vẽ phông cảnh, khi là phông cảnh kết hợp với cảnh thực. Nghệ thuật diễn còn nặng về carabộ, nhưng được công chúng hâm mộ vì có kịch bản, sân khấu mới, ca diễn mới hơn carabộ. Đó là lối diễn bộ, làm điệu bộ minh hoạ lời ca, có múa cách điệu, đổi mới carabộ thành sân khấu cải lương. Mở màn, giới thiệu đào kép cùng cảnh trí đẹp, hát mở màn chào khán giả. Ban cải lương Năm Tú tỏ ra ảnh hưởng nhạc kịch opera về hình thức trình diễn và lối trang trí sân khấu .



Sau Ban Năm Tú, Ban Đồng bào Nam của bà Tư Sự, Mỹ Tho ra đời giữa năm 1919 bảng hiệu “Gánh hát kim thời Đồng bào Nam Mỹ Tho”. Qua bảng hiệu ấy, bà Tư Sự không dám sử dụng hai chữ cải lương mà ông Năm Tú giữ bản quyền, bà phải sử dụng chữ kim thời là hát mới, diễn tuồng mới. Ngày ấy chưa ra luật bản quyền, nhưng hầu hết các ban hát không dám vi phạm, sau này có một số ban vì phạm bị kiện phải nghỉ diễn.



Ban Đồng bào Nam, tác giả viết kịch bản Nguyễn Phong Sắc, soạn các vở: Tham phú phụ bần, Cô ba lưu lạc, Bội thê thiên xử… Những vở diễn ban hát của bà Tư Sự là những vở cải lương đương đại. Tác giả Nguyễn Phong Sắc người đầu tiên viết kịch bản cải lương đề tài cuộc sống mới. Mỗi vở diễn phản ánh thân phận người phụ nữ, có vở phê phán hướng về giáo lý phong kiến, thuỷ trung một vợ một chồng, một số vở lại tố cáo xã hội thực dân phong kiến, bênh vực người phụ nữ. Tác giả Nguyễn Phong Sắc, người đầu tiên có hướng đổi mới sân khấu cải lương, khai sinh ra hình thức cải lương đương đại, lên tiếng bệnh vực phụ nữ.



Sang năm 1919, có hai ban hát cải lương, hai tác giả kịch bản cải lương, khai sinh ra hai hình thức cải lương: cải lương tuồng cổ, cải lương đề tài cuộc sống mới. Bà Tư sự người đầu tiên đề xuất diễn cải lương đề tài cuộc sống mới.



Ban đồng bào Nam có các diễn viên khá nổi tiếng sau này là trụ cột của sân khấu cải lương như: Tám Danh, Năm Phỉ, Hai Giỏi, Hai Nữ, Ba Du, Ba Thâu, Hai Thà, Năm Thiềng, Sáu Huề… Nghệ thuật diễn là ca và bộ, nhưng đổi mới lối diễn gần với kịch nói, bởi dựa trên những kịch bản về con người cuộc sống mới. Các diễn viên hát đối thoại như kịch nói, những động tác đi lại, hành động gần với người thật việc thật. Sự sáng tạo lối diễn mới này không phải do đạo diễn chỉ đạo hành động, tự bản thân mỗi diễn viên xưa tiếp nhận tự nhiên, diễn tự nhiên mà thành (theo lời kể của nghệ sĩ Hai Cúc sau giải phóng năm 1977 tại nhà riêng).



Trang trí sân khấu ban hát tuỳ theo mỗi vở, có vở vẽ cảnh kết hợp với cây cảnh thật, có vở chỉ trang trí phông cảnh. Mỹ thuật phục trang của ban theo phong cách tả thực. Ban hát Đồng bào Nam, là ban đầu tiên diễn cải lương đề tài cuộc sống mới, lên tiếng mạnh mẽ bênh vực người phụ nữ, phê phán chế độ phong kiến thực dân, góp phần đổi mới tư tưởng xã hội.



Ban Nam Đồng ở Hậu Giang ra đời tháng 6 – 1919, soạn giả Nguyễn Công Mạnh viết các vở: Ơn đền oán trả, Thiện ác hữu báo… Ban diễn được một năm ở các tỉnh đồng bằng Mỹ Tho, Hậu Giang, sang đến năm 1920 tan rã. Nam Đồng ban chưa rõ phong cách, còn mập mờ giữa cũ và mới.



Các diễn viên có Năm Phỉ, Hai Giỏi, Hai Quảng, Bảy Thăng, Mười Lùn, hề Năm Tỵ, Sáu Chánh, Tư út, Hai Ngời, Hai Nữ, Ba Điều, Sáu Chức, Hai Thà, Sáu Đảnh, Hai Bông… Bản danh sách diễn viên trên cho thấy sự năng động của các diễn viên cải lương Nam xưa và hiện nay, một người thay đổi nhiều ban hát, ở đâu phù hợp nhất thì ở lâu, bằng không chuyển qua ban mới. Nghệ thuật diễn, tổ chức của Ban chưa ổn định thì cái chết bất ngờ của Hai Giỏi, thêm vào sự mất đoàn kết giữa các cổ đông, ban hát Nam Đồng tan rã giữa năm 1920. Nam Đồng ban tan rã phản ánh thực tiễn các diễn viên tự do lựa chọn ban hát, nhưng phải tổ chức tốt, có phong cách riêng mới tồn tại. hầu hết các ban cải lương xưa và các ban nhạc nhẹ hiện nay tan vỡ thường có ba nguyên nhân: một là mất đoàn kết nội bộ, hai doanh thu không đủ chi, ba không có phong cách riêng để hấp dẫn công chúng.



Ban Tân Phước Nam, ra đời tháng 10 – 1919 tại Sóc Trăng biển hiệu “Gánh hát tân thời Tân Phước Nam”, tác giả của gánh là Giáo Quyển, Trần Tấn Chức. Gánh hát công diễn các vở: Bá di thúc tề, Châu mãi thần của Trần Tấn Chức. Diễn viên có: Tư út, Tư Kiều, Hai Nhỏ, Ba Thẹo, Bảy Cừ, Năm Được…



Tân Phước Nam diễn được sáu tháng tan rã tại Vĩnh Long, nhiều diễn viên chuyển qua ban mới. Ngày ấy, nhiều ban hát thành lập, nhiều diễn viên mới hôm qua ở ban này, mai đã sang ban khác. Sự lưu diễn luân phiên của các diễn viên Nam xưa và nay vẫn tồn tại, nhiều diễn viên từ đồng bằng Nam Bộ lặn lội ra Miền Trung xin hát được ba tháng lại về quê… Sự bất ổn định diễn viên, góp một phần vào sự tăng trưởng và tan giã các ban hát, gây khó khăn phức tạp cho các bầu chủ về chế độ đãi ngộ hiền tài.

Vào cuối năm 1919, ông Hai Hon ở Cần Thơ lập gánh Tân Hưng, soạn giả Trần Phong Sắc từ ban hát khác chuyển về đây. Ban diễn lại những vở cũ của Trần Phong Sắc. Các diễn viên khá nổi: Tư Thạch, Kim Hui, Năm Phỉ, hề Năm Tỵ… Ban diễn được tám tháng tan rã tại Cần thơ.



Những ban hát cải lương ra đời năm 1919, có đội ngũ diễn viên nổi tiếng, diễn nhiều kịch bản mới, kịch bản cải lương cổ, ra đời hai hình thức sân khấu cải lương. Đến năm 1919, sân khấu cải lương đã khẳng định rõ một hình thức sân khấu mới, có hai loại trình diễn: cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại (các ban hát Kim thời, Tân thời). Đây là một cách trưng bảng hiệu khác biệt với ông Năm Tú là cải lương tuồng cổ, còn của họ là cải lương tân thời: Những cách trưng bảng hiệu ấy, họ tự khẳng định phong cách riêng của mỗi ban hát, không vi phạm bản quyền của ai. Sân khấu cải lương ổn định trên các hướng diễn cải lương, có đội ngũ diễn viên mạnh chinh phục công chúng, đội ngũ tác giả viết kịch bản vững chắc, có những vở hấp dẫn như Kiều gặp Kim Trọng, Trang tử cổ bồn, Cô ba lưu lạc, Tham phú phụ bần… Từ cuối năm 1918 đến hết năm 1919, có 12 ban cải lương ra đời, nhưng nay hợp mai tan, cuối cùng còn lại bốn ban có thể ổn định, phát triển. Đây là sự hoàn chỉnh nghệ thuật cải lương đầu tiên về các hướng phát triển: đội ngũ tác giả, diễn viên và công chúng yêu thích hình thức sân khấu mới – một đặc phẩm văn hoá, dân tộc, Nam Bộ.



2. Sự phát triển sân khấu cải lương



Sự phát triển sân khấu cải lương từ năm 1919, ra đời hàng loạt các ban hát nay hợp mai tan, mỗi ban có tên gọi riêng, dàn kịch mục riêng, đây là bước đầu khởi nghiệp các hướng diễn cải lương thoát khỏi nghệ thuật carabộ, hướng tới sân khấu cải lương và công chúng. Từ năm 1920, sân khấu cải lương bùng nổ nhiều ban hát mới, nhiều diễn viên mới, kết hợp với lớp diễn viên tên tuổi tạo thành sự phát triển cải lương rộng khắp các tỉnh Nam Bộ. Đặc biệt nghệ thuật cải lương vào các đô thị lớn, nơi có lớp công chúng thích nhạc Tây, vũ trường, văn minh Âu Tây, loại bỏ hoặc không thích ca nhạc sân khấu dân tộc. Sân khấu cải lương chiếm lĩnh phần đông khán giả các đô thị Miền Nam lan ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ, đó mới đích thực là phát triển sân khấu cải lương.



Lần theo dấu vết thời gian, những nghệ sĩ cải lương Sài Gòn cũ kể lại, qua các nguồn tư liệu, ghi nhận của nghệ sĩ, tác giả, các ban hát cải lương dần hiện lên trong quá khứ lịch sử cải lương. Theo ông Sáu Trọng là nhạc công của ban Tân Thinh, ở số nhà 29 Cao Bá Quát, thành phố Cần Thơ, kể lại ngày 10 – 9 – 1997: vào năm 1920, ông ở Ban Tân Thinh, Ban này do ông Năm Thông mang tiền lên Sài Gòn lập ban lấy tên là: “Đoàn hát cải lương Tân Thịnh”, có rạp ở đường Yecxanh. Trước đây các ban hát thường sử dụng thuật ngữ “ban hát”, “gánh hát”, ít sử dụng các thuật ngữ cải lương, bởi không ai dám vi phạm bản quyền. Nhưng bước qua năm 1920, tình hình đã thay đổi, ông Thông người đầu tiên phát minh ra và sử dụng thuật ngữ Đoàn hát cải lương, đây là một tên gọi mới, khẳng định sân khấu cải lương trở thành tên gọi chung của ngành sân khấu, không ai có quyền độc chiếm. Sự thay đổi tên gọi ấy, là bước đổi mới sân khấu cải lương trở thành tên gọi chung của một sản phẩm nghệ thuật toàn dân. Ban Tân Thinh đến năm 1920 mới ra đời, sáng tác hai câu thơ treo trước cửa rạp:



Cải lương ca hát theo tiến tiến bộ

Lương truyền tuồng tích sánh văn minh



Theo cuốn lịch sử sân khấu Việt Nam trang 49, nhóm biên soạn ghi như vậy, riêng ông Sáu Trọng đã công nhận có treo băng rôn hai câu thơ ấy. Tư liệu này chắc là có thật, nhưng sang năm 1920 thì cải lương không còn là mới, vậy vì sao họ lại treo hai câu thơ này? Theo nhóm nghiên cứu cải lương của Hội sân khấu thành phố cung cấp do một trong hai soạn giả Lâm Hoài Nghĩa và Nguyễn Quốc Biểu nghĩ ra, còn ông Sáu Trọng cho là cả hai ông cùng trao đổi mà thành. Điều ấy chứng minh hai câu thơ trên đã có tác giả, nó ra đời sau sân khấu cải lương. Qua tư liệu khá chính xác ấy, khẳng định hai chữ “cải lương” không phải do ông Năm Tú ghép từ hai câu thơ trên, vì ban hát của ông ra đời năm 1918, chắc chắn ông đã sử dụng lại thuật ngữ “cải lương” của các nhà báo.

Trở lại Đoàn cải lương Tân Thinh có hai soạn giả viết vở: Bạch tuyết Kiên Trinh… Diễn viên khá nổi danh như Hai Nhiễu, Hai Nữ, Bảy Nam, hề Chín Phót, Chín ích, Năm Phồi, Ba Ngưu, Hai Thành… Đoàn Tân Thinh là đoàn đầu tiên định hướng diễn cải lương gọi là “tuồng xã hội”. Nếu xét theo lịch sử không phải Đoàn Tân Thinh là đoàn đầu tiên diễn cải lương xã hội, nhưng giới cải lương xưa thường phân biệt có hai loại cải lương. Loại sân khấu cải lương diễn những vở cải lương tuồng cổ, gọi là “tuồng cải lương”, còn những vở cải lương tân thời (đương đại), gọi là tuồng xã hội. Nếu phân loại sát hơn nên gọi là: cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại, vì những vở cổ như Kiều Đạm Tiên, Kiều Từ Hải, Kiều Nguyệt Nga… là tuồng xã hội, nhưng các cụ xưa gọi thế để phân biệt cải lương cổ với cải lương tân thời.



Đoàn cải lương Tân Thinh, ca diễn ngọt mùi mang bản sắc sân khấu cải lương thủa ban đầu, nổi bật lối ca Tứ đại xuân của Hai Nhiêu, hề gây cười Chín Phót. Trang trí sân khấu lộng lẫy, là Đoàn hát đầu tiên trang trí tả thực mỹ lệ hoá sân khấu, nhiều cảnh sơn thuỷ hữu tình, đẹp lộng lẫy. Đoàn Tân Thinh hấp dẫn công chúng tại Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng Nam Bộ.



Sang năm 1921, cải lương phát triển mạnh, nhiều ban hát mới xuất hiện, có thanh thế, diễn các hướng cải lương. Văn Hý ban của Mười Vui, tuyên ngôn diễn cải lương tuồng Tầu. Soạn giả Đào Trí Phú, viết các vở Kỳ duyên phố, Triệu Kinh Nương… Mấy vở công diễn hướng cải lương tuồng Tầu thành công vì sân khấu mới, đẹp sang trọng, diễn viên ca cải lương pha Triều Quảng hấp dẫn.



Diễn viên Văn Hý ban: Ba Mật, Chín Thêu, Tư Dầu, Hai Tỷ, Tư Thạnh, Tư Đề, Năm Phỉ, Mười Nhường, Kim Hui… Hình thức diễn những vở tuồng Tầu, trang phục đẹp, nhiều diễn viên tài sắc. Nổi nhất ban hát được công chúng hâm mộ là nghệ sĩ Chín Thêu, mỗi Show diễn có cô chật kín rạp, giọng ca cao sáng mượt mà, hình thể đẹp, khiến nhiều công tử siêu lòng tung tiền để chiếm đoạt cô.



Văn Hý ban trở thành ban lớn nhất Sài Gòn - Chợ Lớn, làm nhiều ban cải lương khác không dám lên diễn vì sợ thất thu, không hoành tráng, lộng lẫy bằng.



Tại Long Xuyên năm 1921, Tập ích ban ra đời bằng nguồn diễn viên địa phương, tác giả địa phương diễn cải lương Triều Quảng. Nhiều vở diễn là truyện Trung Quốc, chủ ban là người Hoa, mọi người gọi là ông Vương. Ông Vương chắc là họ, còn tên thì không rõ, nhưng ông Vương đã làm cho Tập ích ban nổi tiếng bằng sự đào tạo diễn viên của riêng mình để chuyên diễn cải lương Triều Quảng.



Tác giả của Tập ích ban, Nguyễn Trọng Quyền, ông thường lấy bút danh Mộc Quán với các vở: Tây Sương Ký, Thế nhận oan ương, Lưu Hiền nữ, Tình phai phấn lạt, Châu Trần phải nghĩa… Diễn viên có một số người Hoa, người Việt, nhiều diễn viên sau này khá nổi tiếng như Bẩy Nhiêu, Tư Thới, Văn Chuông… Tập ích ban có lớp diễn viên trẻ đẹp như Năm Hỷ, Sáu Ty, Sáu Trâm, Hai Hiến, Ba Vinh, Kiều Loan, Song Hỷ, Lâm Sanh, Dương Hoa, Đại Hồng, Tần Văn, Kiều Mỵ… Tập ích ban là ban hát đầu tiên tổ chức chặt chẽ, có quy chế sinh hoạt, trả lương tháng cho diễn viên theo định mức tài năng. Nghệ thuật ca diễn, diễn vũ đạo trụ bộ gần giống tuồng cổ, ca cải lương pha Triều Quảng, trang phục kim sa, kim tuyến lộng lẫy. Sân khấu cảnh trí tả thực, hoành tráng đẹp và hấp dẫn.



Tập ích ban là ban hát kiểu mẫu đầu tiên về tổ chức, các diễn viên diễn theo dàn cảnh của ông bầu, gần như có đạo diễn cho mỗi vở. Mỗi diễn viên học thuộc bài ca, lời kịch, tập ráp, sau đó xét duyệt rồi mới duyệt công diễn.



Qua hai ban cải lương Văn Hý ban, Tập ích ban là hai ban cải lương diễn cải lương tuồng Tầu đầu tiên, xuất hiện hướng cải lương mới. Nghệ thuật diễn gần tuồng cổ, ca cải lương pha Quảng. Sân khấu cải lương từ năm 1918 đến năm 1920 thuần Việt, những vở diễn là truyện văn học dân gian, cổ điển Việt Nam. Năm 1919, xuất hiện cải lương đề tài cuộc sống mới, năm 1921, ra đời cải lương diễn tuồng Tầu. Cải lương tuồng cổ Trung Hoa, ca cải lương pha Quảng.



Từ năm 1921, sân khấu cải lương có ba hướng: một là cải lương tuồng cổ, những vở diễn là cốt truyện văn học Việt, hai là những vở cải lương đề tài con người Việt Nam đương đại, ba là những vở cải lương tuồng cổ diễn tích truyện Trung Hoa, gọi là cải lương tuồng Tầu. Đến đầu năm 1921, sân khấu cải lương phát triển mạnh, đa phong cách, hình thức thể loại, có đội ngũ tác giả, diễn viên chuyên nghiệp, tổ chức chặt chẽ. Mỗi đoàn hát, ban hát ra đời mang phong cách riêng tồn tại, phát triển từng nơi có rạp diễn hằng đêm đảm bảo doanh thu, đáp ứng công chúng hâm mộ.



Sau những ban hát có tổ chức, diễn viên, tác giả có tính chuyên nghiệp cao, phải kể ra nhiều ban hát khác ở các tỉnh đồng bằng Nam Bộ như Tiểu học ban, Sì đồng du, Như thuỷ, Võ hý ban… Ban Nam đồng ra đời năm 1919 tan rã đầu năm 1920, đến tháng 4 năm 1926, Nam đồng ban thành lập lại do bầu chủ Hai Cu, chiêu nạp diễn viên lấy biển hiệu là: Tái đồng ban tại Mỹ Tho. Tác giả biên kịch của ban là Nguyễn Công Mạnh, có thêm hai tác giả mới Năm Châu, Tư Chơi. Qua đây cho thấy đội ngũ tác giả cải lương ngày càng đông, người trước giúp người sau nối nghiệp cải lương. ông Mạnh là nhà nho đã giúp hai diễn viên giỏi nghề Năm Châu, Tư Chơi từ năm 1926 tham gia viết cải lương. Sau này, Năm Châu chủ trương diễn cải lương: “cải lương phải thật, thập phải đẹp”. Ông đã thành lập gánh Việt kịch Năm Châu để thực hiện các hướng diễn cải lương như cải lương opera, kịch Tây, cải lương Việt kịch, mỹ lệ hoá sân khấu cải lương. Cải lương diễn gần với kịch nói, ca diễn theo lối tân thời. Quan niệm của Năm Châu gần với cải lương đề tài cuộc sống mới, ngày xưa gọi là tuồng xã hội. Vở cải lương Cô ba lưu lạc ra đời năm 1919 của Nguyễn Phong Sắc, gọi là cải lương tuồng xã hội làm cho ba ông: Vương Hồng Sến, Bẩy Nhiêu, Nguyễn Ngọc Cương, bỏ học đi theo cô đào diễn vai Cô ba lưu lạc, các ông “lưu lạc” dưới các tỉnh đồng bằng Nam Bộ.



Tái đồng ban lại chủ chương diễn tuồng Tầu, nhưng do có phong cách mới hơn Tập ích ban, Văn hý ban, tuồng Tầu “đánh đồ thiệt”. Nghĩa là đạo cụ sân khấu, kiếm kích, đao thương thiết kế như thật, trang trí sân khấu phông vẽ tả thực như thật, đôi cảnh bày đồ thật. Vẽ tả thực là những phong cảnh vẽ theo tranh thuỷ mạc cảnh Tầu, tả lá cây chi tiết đến từng cái gân lá, những hàng răng cưa to nhỏ của các loại lá. Phục trang kim sa, kim tuyến long lanh như thật, còn nữ trang trên tay, bông tai là đồ thật. Sự hấp dẫn ấy tạo ra một phong thái cải lương mới nguy nga, tráng lệ, ca diễn cải lương pha Quảng theo thị hiếu công chúng. Tác giả Nguyễn Công Mạnh viết các vở công diễn ăn khách như: Sử Cấm Bình, Mộc Quế Anh, Anh hùng đại náo Tam Môn Nhai, Thất Huyền Quyến, Phụng Nghi Đình… Theo một số tư liệu cho là hai vở sau có sự tham viết của Năm Châu, Tư Chơi. Diễn viên có: Ba Du, Năm Châu, Tư Chơi, Tám Mẹo, Tư út, Tư Anh, Hai Ngời, Tư Nhỏ, Ba Điều, Ba Liên, Ba Nhàn, Phùng Há, Hai Bông, hề: Năm Tỵ, Sáu Chánh. Đây là ban hát mạnh, nhiều diễn viên nổi tiếng, hai diễn viên hài thay nhau pha trò chọc cười, góp phần hấp dẫn, đáp ứng bốn đặc tính cải lương: bi – hùng – trữ tình – vui hài.



Sự lớn mạnh đội ngũ diễn viên, nghệ thuật diễn phong phú của Tái đồng ban, làm chao đảo nhiều ban hát chạy theo lốt diễn cải lương “hát có đánh đồ thiệt”. Từ năm 1926, thêm một hướng cải lương tả thực như thật của Tái đồng ban.



Ban Mười Vui là người có tiền, có thế lực ở Chợ lớn ra đời năm 1921, đến năm 1927 chuyển theo hướng Tái đồng ban “hát có đánh đồ thiệt”, đổi tên thành Văn võ hý ban. Ban hát Mười Vui diễn tuồng văn, tuồng võ. Ban hát Ông đã tồn tại bẩy năm, tiếp tục phát triển hướng diễn mới, theo tên gọi mới. Tại Sài Gòn đã có các ban hát: Văn hý ban, Võ hý ban và Văn võ hý ban. Mỗi tên ban hát diễn một loại cải lương tuồng cổ: tuồng văn, tuồng võ và pha trộn văn võ. Đó là bước phát triển phong phú cải lương tuồng cổ.



Năm 1921 có cải lương tuồng Tầu: Văn hý ban

Năm 1926, Tái đồng ban – diễn tuồng Tầu, đánh đồ thiệt

Năm 1927, cải lương tuồng cổ: Văn võ hý ban

Đây là những ban hát, bầu chủ người Hoa, diễn cải lương pha tuồng Tầu theo tuồng văn, tuồng võ của Kinh kịch, Việt kịch Trung Hoa.



ảnh hưởng lớn mạnh của sân khấu cải lương từ năm 1927, lan rộng đến mọi đối tượng công chúng Nam Bộ, từ nông thôn đến thành thị, các tầng lớp lao động nông công thương, thợ thủ công đến sinh viên, các nhà tri giả yêu thích cải lương. Đầu tiên là giới báo trí Sài Gòn các ký giả nổi tiếng như Trương Vĩnh Kỳ, Đặng Thúc Liếng, nguyễn Văn Kiều, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Văn Hanh, Lê Hoàng Mưu… Đội ngũ ký giả khá đông có người lập ban hát, nhiều người viết bài tuyên truyền, cổ động sân khấu cải lương, giới thiệu đào kép… Sân khấu cải lương trở thành diễn đàn văn nghệ sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, là hình thức vui chơi giải trí mới được công chúng hâm mộ. Sự hâm mộ của công chúng dẫn đến nhiều ban hát cải lương mới gia tăng, xuất hiện các hướng diễn cải lương phong phú.



Năm 1925, Ban Phước Cương ra đời thu hút các đào kép Văn hý ban, Tập ích ban… làm cho ban nhanh chóng lớn mạnh. Các đào kép nổi tiếng như: Bẩy Nhiêu, Năm Phỉ, Tám Danh, Sáu Thương, Năm Định, Bảy Thành, Sáu Lê, Bảy Nhỏ, Hai Lợi, Hai Trì, Tư Huề, Chí Lê, Bảy Lựu…



Tác giả Đặng Công Danh là người của ban, còn có cộng tác viên như Nguyễn Trọng Quyền, Nguyễn Công Mạnh… vở diễn khai trương ban hát: Tam Tinh xuất thế, diễn ở rạp Modecno, trên đường Lê Thánh Tông hiện nay. Mục đích ban hát diễn ba loại: cải lương Việt, tuồng Tầu, tuồng Tây. Đây lại xuất hiện một hướng mới, khẳng định năm 1925 xuất hiện cải lương diễn tuồng Tây. Các soạn giả của ban và bầu chủ có những người Pháp học, họ bắt đầu đưa văn học Pháp vào cải lương .



Bầu chủ Phước Cương là ông Ngọc Cương từng du học ở Pháp, ông khuyến khích các tác giả dịch văn học Pháp, chuyển thể vào cải lương. Người đầu tiên soạn vở cải lương từ tác phẩm văn học Pháp là ông Ngô Vĩnh Khang vở Tơ vương đến thác (La Dame aux camelias), tiếp đến ông Đặng Công Danh chuyển thể vở Sĩ Vân công chúa từ tác phẩm văn học Pháp: Tristanet Iseuet.



Ban hát Phước Cương khá mẫu mực về các mặt sinh hoạt, nghệ thuật biểu diễn, một số nghệ sĩ cải lương thời ấy kể lại, ông bắt các diễn viên sinh hoạt theo giờ, ra đường ăn mặc lịch sự để khẳng định cái vinh của người nghệ sĩ giầu lòng tự trọng. Ông lại cấm các tệ nạn xã hội, không uống rượu, cờ bạc, vay tiền trong ban hát để đánh bạc. Một ban hát vào thời ấy, lại tổ chức quy chế như vậy quả là chặt chẽ, có hướng tiến bộ.



Năm 1927, ông Trần Đắc ở Cần Thơ lập gánh cải lương Trần Đắc công diễn ngày 15-9-1927 tại thành phố Cần Thơ. Ban Trần Đắc diễn cải lương tâm lý xã hội tuồng Việt và tuồng Tây. Ngày nay gọi là những vở cải lương đương đại và những vở cải lương chuyển thể từ tác phẩm văn học Pháp vào cải lương, đây lại thêm hướng diễn cải lương mới.



Ông Trần Đắc quê ở Mỹ Tho, công tử điền chủ gánh hát lớn bậc nhất Nam Kỳ thời ấy, có nhiều diễn viên từ các ban khác chuyển về như: Kim Thoa, Sáu Huề, năm Châu, Phùng Há, Tư út, Tư Anh, Ba Thâu, Năm Thiềng, Ba Nhàn, Tư Sạng, Sáu Huề, Ba Liên… Tác giả biên kịch có các ông: Trần Hữu Trang (Tư Trang), Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung), Năm Châu (Nguyễn Thành Châu)… Ông Năm Châu soạn vở Giá trị và danh dự, phỏng theo kịch bản văn học Pháp Lecid của Corneille. ông Tư Chơi vở Khúc oan vô lượng, Tư Trang vở Lửa đỏ lòng son… Ban hát Trần Đắc chủ chương diễn các vở cải lương tâm lý xã hội, dù là tuồng Việt hay tuồng Pháp chỉ theo một hướng. Đây là một hướng mới, ca diễn cải lương ngọt mùi, mùi mẫn, sướt mướt, bắt đầu ảnh hưởng văn học lãng mạn Pháp. Sân khấu có mầu vàng và mầu sám trên trang phục và ánh sáng. Các tác giả thể hiện những câu chuyện tình bi lỵ, giải thoát theo đạo giáo như vở Giá trị và danh dự, ông Năm Châu sửa đoạn kết nàng tiểu thư Mari vào làm bà sơ trong nhà cô nhi viện…



Hai ban hát cải lương Phước Cương, Trần Đắc lẫy lừng Nam Bộ, ban Trần Đắc còn sang Pháp diễn cải lương. Đây là những ban hát mở ra hướng diễn cải lương mới, đầu năm 1925 xuất hiện cải lương diễn những tác phẩm văn học Pháp và phương Tây vào Việt Nam.



Ban Phước Cương ra đời năm 1925, diễn cải lương tâm lý xã hội Việt Pháp hoạt động ở Chợ Lớn và các tỉnh Nam Bộ đến năm 1929 ta rã dưới Mỹ Tho.



Ban Trần Đắc ra đời năm 1927, diễn cải lương tâm lý xã hội, đầu năm 1930 đổi thành Ban Huỳnh Kỳ có thêm các diễn viên Hai Nữ, Năm Long, Ba Giỏi, Phùng Há, Tư Bé, Ba Châu, Năm Kiệt… Ban Huỳnh Kỳ chuyển hướng diễn cải lương dã sử dân gian Việt Nam, đây lại một phát hiện mới của cải lương. Nhưng Ban Huỳnh Kỳ tan rã tại Hà Nội sau năm 1930, vì đây là giai đoạn thoái trào sân khấu cải lương, bị ảnh hưởng từ tình hình kinh tế, chính trị xã hội, nhiều ban hát tan rã.



3. Sự ra đời các khuynh hướng diễn cải lương



Nhiều người trong giới nghiên cứu ngại sử dụng thuật ngữ khuynh hướng, cho là trong nghệ thuật ít xuất hiệt khuynh hướng. Khái niệm khuynh hướng hiểu đơn giản chỉ một hiện tượng, sự vật nào đó, bộc lộ rõ một thiên hướng trong quá trình phát triển, đó là khuynh hướng. Dựa trên ý nghĩa nội dung khái niệm khuynh hướng như thế, khẳng định quá trình các ban hát cải lương đã thể hiện ý đồ, khuynh hướng riêng. Sự phát triển hưng thịnh và suy thoái sân khấu cải lương, qua các khuynh hướng diễn cải lương của nhiều ban hát đã phát hiện nhiều hình thức diễn cải lương mới lạ để hấp dẫn khán giả.



Sân khấu cải lương hưng thịnh từ năm 1921 đến 1928, ra đời nhiều ban hát, có đội ngũ tác giả, diễn viên nổi tiếng. Những ban hát thời mới ra đời, họ có tác giả riêng của mỗi ban, chỉ riêng điểm ấy đã hơn hẳn các Đoàn, Nhà hát cải lương thời nay, không ở đâu chăm sóc cho riêng một tác giả ở đoàn hát của mình. Bao nhiêu năm xây dựng sân khấu với những tên gọi các cuộc liên hoan khá kêu “Nửa thế kỷ sân khấu Việt Nam”, nhưng chỉ một số đoàn kịch, chèo, tuồng có tác giả của riêng đoàn, còn những tác giả có tính chuyên nghiệp cao lại ở các cơ quan khác. Chỉ riêng điểm ấy, đã làm cho sân khấu chậm phát triển, ít có khuynh hướng riêng đặc sắc và độc đáo. Sự phát triển cải lương những năm đầu thế kỷ XX, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt trong thị trường sân khấu, những ban lớn tồn tại năm mười năm, những ban nhỏ từ một đến ba năm tan rã. Cả Nam Bộ có các ban: Năm Tú, Tân Thinh, Tân phước nam, Đồng bào Nam, Tân hưng, Văn hý ban, Như thuỷ ban, Sĩ đồng du, Phước Cương, Trần Đắc, Thi phát huê, Nhã Tinh, Huỳnh Kỳ, Tân đồng, Đồng nữ, Tăng minh, Nghĩa hiệp, Vạn phước, Nam hưng, Phước trung nam, Ban Lê Quang Liêu, Đặng Thúc Liếng, Ban Quốc trái, phường tuồng Hội nhà báo, Tân Phước Nam, An Tri Thuận, Thanh Minh, Hai Cu, Văn hý ban, Văn võ hý ban… Theo con số chưa đầy đủ là 32 ban cải lương, có hai ban Phước Cương, Trần Đắc lớn nhất, tổ chức chặt chẽ về các mặt hoạt động doanh thu mang tính chuyên nghiệp hoá. Hai ban cải lương này, truyền bá cải lương ra Bắc – Trung, ảnh hưởng tới nước Pháp và Đông Dương. Từ những ban diễn carabộ lan toả ra Bắc năm 1919, năm 1926, ban Trần Đắc ra Hà Nội diễn cải lương. Sân khấu cải lương đã phát triển ảnh hưởng tới ba miền: Nam – Bắc – Trung.



Sự ra đời các hướng diễn cải lương phát triển mạnh:



- Năm 1918, ra đời sân khấu cải lương tuồng cổ, đa phần tuồng tích Việt.

- Năm 1919, diễn cải lương đề tài cuộc sống con người đương đại.

- Năm 1921, cải lương diễn tuồng Tầu

- Năm 1925, cải lương diễn tuồng Tây.



Sự phát triển cải lương lần thứ nhất: 1919 đến 1930, bộc lộ các khuynh hướng cải lương, mỗi khuynh hướng là một trào lưu diễn cải lương. Ngay giai doạn đầu, sân khấu cải lương thể hiện những điểm mạnh, những yếu điểm của tự do cạnh tranh. Mỗi ban hát ra đời mang phong cách, khuynh hướng riêng, thể hiện tính đa dạng, đa phong cách về sự tiếp thu nghệ thuật đương đại, bảo tồn truyền thống. Ngày nay, cải lương chỉ kế thừa những tinh hoa nghệ thuật đương đại trước sự hội nhập nghệ thuật toàn cầu hoá.



II. Sự phát triển ca nhạc cải lương



1. Những ban nhạc tài tử – carabộ



Sân khấu cải lương hình thành từ ba bộ phận quan trọng: âm nhạc, kịch bản văn học và các hình thức nghệ thuật khác, trong đó hai bộ phận đầu tiên tạo thành nghệ thuật âm nhạc và kịch bản văn học, không có âm nhạc không thể có cải lương. Âm nhạc là đặc trưng bản sắc, phong cách sân khấu kịch hát chèo, tuồng, cải lương … của nền sân khấu kịch hát Việt Nam.

Sân khấu cải lương Nam Bộ ra đời, mang phong cách đặc phẩm văn hoá Nam Bộ, bắt nguồn từ sự hình thành nền âm nhạc dân gian Nam Bộ. Nền âm nhạc ấy, có các điệu hò, điệu lý… sau này ra đời dòng ca nhạc tài tử Nam Bộ. Ca nhạc tài tử là tên gọi độc đáo, từ tên gọi đến hình thức hoà tấu dàn nhạc, hệ thống bài bản… mang phong cách đặc trưng riêng của ca nhạc tài tử. Một hình thức tổ chức biên chế dàn nhạc, lề lối hoà tấu, đến tên gọi khắp cả nước không vùng nào có “dàn nhạc tài tử” chùng hợp với các dàn nhạc tài tử Nam Bộ. Ca nhạc tài tử ra đời từ dân gian lên chuyên nghiệp vào năm 1910, xuất hiện hàng loạt các ban nhạc, nhạc công nổi tiếng khắp Nam Bộ. Nhiều nhạc công sáng tác bài bản cho vốn ca nhạc tài tử. Năm 1899, Vua Thành Thái từ Huế vào Sài Gòn đã nghe dàn nhạc tài tử hoà tấu bản Ngự do nghệ nhân sáng tác. Đây là loại nhạc lễ của dàn nhạc Cung đình Huế, bản tài tử này ảnh hưởng Cung đình Huế, nhưng sáng tác trên đất Nam Bộ. Sau này vào cải lương bản nhạc, đã cải lương hoá. Nhạc tài tử là nhạc lễ ra đời năm 1899 tại Sài Gòn, nhạc tài tử có tập bài bản đầu tiên xuất bản năm 1909 đến 1915 ra đời các tập bài bản: Lục tài tử, Bát tài tử, Thập tài tử, Tứ tài tử, Ngũ tài tử… Ông Trần Quang Quờn sáng tác, truyền bá các bản: Bình bán, Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng… Ca nhạc tài tử phát triển thành dàn nhạc chính quy, có bài bản hoà tấu quan trọng, các nghệ nhân cải lương ai cũng biết luật chơi. Những bài bản ấy được xếp hạng: nhất lý, nhì ngâm, tam nam, tứ oán, ngũ điểm, lục xuất, thất chính, bát ngự, cửu nhĩ, thập thủ liên hoàn.



Sự xếp hạng ấy, là luật chơi nhạc của ca nhạc sân khấu cải lương. Ca nhạc cải lương ra đời từ ca nhạc tài tử, những ban nhạc tài tử nổi tiếng từ năm 1910 đến 1915:



Ban Nhạc Khị – Bạc Liêu [1]

Ban Kinh kịch Quờn – Vĩnh Long

Ban Tư Triều, Cái Thia – Mỹ Tho

Ban Hồng Triều, Vĩnh Kim – Mỹ Tho

Ban ái Nghĩa, Phong Điền – Cần Thơ

Ban Bẩy Đông – Sa Đéc

Ban Ba Chột – Bạc Liêu

Ban Đăng Đàn – Vĩnh Long

Ban Mười Khôi

Ban Cao Huỳnh Diêu

Ban Cao Huỳnh Cư

Ban Mường Nhường

Ban Tư Khôi

Ban Mười Lý

Ban Bẩy Triều

Ban Tống Hữu Định – Vĩnh Long

Ban Andre Thận – Sa Đéc

Ban Phó Mười Hai – Vĩnh Long

Ban Đặng Thúc Liếng – Mỹ Tho…



Hai mươi ban ca nhạc tài tử, carabộ, là con số còn quá ít so với sự phát triển ca nhạc tài tử lúc ấy, nhưng đây là những ban nhạc tiểu biểu cho sự phát triển ca nhạc và carabộ. Những ban nhạc nổi tiếng chứng minh sự phát triển mạnh ca nhạc tài tử, carabộ, khắp các tỉnh đồng bằng Nam Bộ.



Mỗi ban nhạc có những nhạc công nổi danh như Sáu Tài, Tư Hiên, Bảy Thạch, Giáo Tiên, Trần Quang Quờn, Bảy Thông, Bảy Cảnh, Huỳnh Diêu, Huỳnh Cứ, Mười Nhường, Mười Lý, Tư Khôi, Đăng Đàn, Mười Khôi… Những ca sĩ ca nhạc tài tử, carabộ có: Ba Đắc, Hai Nữ, Hai Cúc, Hai Nhiêu, Bảy Kiên, Ba Điều, Ba Niệm, Tám Sâm, ông Bảy Kiên, Bảy Cừ, Hai Giỏi… Những ca sĩ này hát, diễn ca nhạc tài tử lúc đầu ngồi nghiêm trên bộ ván tứ ca, sau mặc quốc phục nghiêm trang đàn ca. Nhưng có hai giả thiết, một cho là vào năm 1914 cô Ba Đắc ca có điệu bộ, lúc ấy là ngồi ca nhưng đưa tay lên, hạ tay xuống, sau đứng ca có điệu bộ. Giả thiết thứ hai, theo nhóm biên soạn của Hội sân khấu thành phố cho rằng carabộ ra đời vào năm 912 – 1915. Qua nhiều nhà nghiên cứu, có thể lấy khoảng thời gian 1914 đến 1918, là quá trình ra đời, phát triển hình thức carabộ, một trò diễn ca nhạc tiền thân của sân khấu cải lương. Ca nhạc tài tử ra đời từ ca nhạc dân gian, nhạc phong tục, nhạc lễ, nhưng phát triển thành các dàn nhạc chuyên nghiệp có tổ chức dàn nhạc, vào năm 1918 đến 1920 có:



- Lục tài tử (1918)

- Tứ tài tử (1919)

- Ngũ tài tử (1920)



Những dàn nhạc tài tử, tạo ra vốn bài bản có khoảng 120 bản đàn ca tài tử, đây là số bản nhạc đủ để ra đời sân khấu cải lương. Những ban nhạc tài tử từ 1914 đến 1918 – 1920, thường diễn đàn ca tài tử carabộ, chỉ một số ban có diễn cải lương sau năm 1918. Những bài bản cải lương là bài bản carabộ và tài tử, bản Oán là bản chủ đạo của carabộ và sân khấu cải lương. Vào năm 1918 – 1920, mới có bản Dạ cổ hoài lang.



2. Bản Dạ cổ hoài lang



Sự ra đời bản Dạ cổ hoài lang, theo các nhà nghiên cứu Vũ Đào, Lê Văn Chất… cho là nó ra đời vào năm 1917. Còn theo ông Vương Hồng Sến, Trần Văn Khải… cho là vào năm 1920 xuất hiện bài Dạ cổ hoài lang của ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu. Hiện nay nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu cho rằng bản Dạ cổ hoài lang ra đời vào năm 1917 – 1918, nhưng theo các báo Nông cổ mín đàm, Phan yên báo, Tạp chí Đông Dương… đăng những bài nói về sân khấu cải lương năm 1918, thường ca bài Tứ đại oán hơi xuân, hơi Nam, chưa có ca Vọng cổ. Do đó, bài Dạ cổ hoài lang chỉ ra đời vào năm 1920, có phần chính xác hơn.



Dạ cổ hoài lang, ý nói đêm nghe tiếng trống nhớ chồng, một bài ca tâm trạng của người phụ nữ xa chồng, mỏi mắt chờ mong. Bài ca nhanh chóng đến với công chúng, năm 1928 Bẩy Kiên đặt lời xen vào bài Dạ cổ giữa bốn lớp Dạ cổ có ba lớp Tây thi, ông gọi là Cổ thi. Đây là hình thức ca sáng tạo phá cấu trúc bài Dạ cổ đầu tiên để nó gắn với thực tiễn phong phú trong đời sống xã hội. Bài Dạ cổ ông Sáu Lầu viết là nhịp hai, kết hợp với bài tây thi nhịp tư, thế là bài Dạ cổ chuyển thành bài Cổ thi nhịp bốn. Tiếp theo nghệ sĩ Tư Chơi phổ biến bài Vọng cổ thi lên nhịp tám năm 1936, từ nhịp tám tăng lên nhịp mười sáu, cô Phùng Há làm cho nó càng nổi tiếng và hấp dẫn. Bài Vọng cổ nhịp mười sáu là bài bản cải lương hay nhất trong vốn ca nhạc cải lương, những người yêu thì trân trọng nâng niu, người ghét coi là đồ bỏ đi. Năm 1951 ca nhạc cải lương bị cấm vì cho rằng nó là bài Vong quốc, tình cảm uỷ mị, thiếu tinh thần chiến đấu, năm 1952 mới phục hồi cải lương vùng kháng chiến. Bài Vọng cổ và nghệ thuật cải lương đặc sắc có một thân phận như nàng Kiều “hồng nhan bạc phận”. Bài Dạ cổ hoài lang để có điều kiện tồn tại đã phát triển biến đổi, sau ngày kháng chiến năm 1945 có tên gọi là bản Vong quốc, Vọng cố đô, Sầu vạn cổ, sau khi phục hồi cải lương bài Vọng cổ được sống lại. Bài Dạ cổ hoài lang đã qua các tên gọi: Năm 1920 Dạ cổ hoài lang, năm 1928 gọi là Cổ thi, năm 1936 gọi là bản Vọng cổ. Bản Vọng cổ tiếp tục phát triển kỹ thuật ca cao siêu trong ca nhạc cải lương, là những bí quyết thành công của các nghệ sĩ cải lương. Mỗi người có một kỹ thuật ca, một phong cách riêng, nên được gọi với cái tên riêng: Vọng cổ út Trà Ôn, Vọng cổ Năm Châu, Vọng cổ Phùng Há, Vọng cổ Thanh Tuấn, Vọng cổ Bạc Liêu… Bài Dạ cổ hoài lang là tư liệu quý, nguồn gốc bài Vọng cổ khi mới ra đời của ông Sáu Lầu, lời ca do ông Trần Văn Khải ghi lại bài Dạ cổ hoài lang (nhịp đôi).



Từ là từ phu tướng

Bảo kiếm sắc phong lên đường

Vào ra luống trông tin chàng

Đêm năm canh mơ màng

Em luống trông tin nhạn

Ôi gan vàng quặn đau

Đường dầu xa ong bướm

Xin đó đừng phụ nghĩa tao khang

Còn đêm luống trông tim bạn

Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu



Vọng phu vọng luống trông tim chàng

Lòng ai xin chớ phũ phàng

Chàng hỡi chàng có hay

Đêm thiếp nằm luống những sầu tây

Biết bao thủa đó đây xum vầy

Duyên sắt cầm đừng lạt phai



Thiếp xin nguyện cho chàng

Nguyện cho chàng hai chữ bình an

Mau trở lại gia đình

Cho én nhạn hợp đôi.



Từ bài Dạ cổ hoài lang cổ xưa đến bài Vọng cổ, có lời ca, khung nhịp âm nhạc đã biến đổi vô định trong nghệ thuật ca diễn. Bài Vọng cổ biến đổi nhịp điệu theo thời gian và thẩm mỹ công chúng:



- Năm 1920 bài Dạ cổ hoài lang nhịp hai

- Năm 1928 bản Cổ thi nhịp tứ

- Năm 1936 bản Vọng cổ nhịp tám

- Năm 1945 bản Vọng cổ nhịp 16

- Năm 1965 – 1985 bản Vọng cổ nhịp 64

- Năm 1990 Vọng cổ nhịp 16…



Những thay đổi nhịp điệu bài Vọng cổ là sự phát triển kỹ thuật ca, sự thay đổi ấy gia tăng về lời ca, nội dung bài bản và nhịp điệu âm nhạc. Bản Vọng cổ qua nhiều lần biến đổi lại quay về nhịp 16, khẳng định đây là nhịp điệu cấu trúc hay nhất. Bản Vọng cổ giống như nghệ thuật cải lương, hoặc coi đó là linh hồn của cải lương, mà bản Vọng cổ là cái bóng thu nhỏ. Bản Vọng cổ luôn biến đổi tồn tại, đáp ứng công chúng qua những khoảng thời gian, dù quay về nhịp 16, không có nghĩa là theo đường xưa cũ. Ngay nhịp điệu 16, bản Vọng cổ không ngừng sáng tạo kỹ thuật ca của các nghệ sĩ. Kỹ thuật ca bản Vọng cổ luôn là những bí ẩn sáng tạo, thành công của mỗi nghệ sĩ. Kỹ thuật ca bản Vọng cổ luôn ở phía trước như nghệ thuật sân khấu cải lương đang phát triển trước công chúng. Đó là giá trị bài Vọng cổ và nghệ thuật cải lương.



3. Bước phát triển ca nhạc mới vào cải lương.



Sự phát triển ca nhạc vào cải lương xuất phát từ thực tiễn nội dung kịch bản sân khấu, nội dung kịch bản sân khấu bị ảnh hưởng dưới sự tác động của các trào lưu tư tưởng văn hoá xã hội. Những phong trào đổi mới lối sống, đổi mới xã hội tác động vào sân khấu cải lương, ảnh hưởng đến sự phát triển âm nhạc. Sự phát triển bản Vọng cổ là một khuynh hướng cải cách ca nhạc, cùng với nghệ thuật ca là sự cải cách các nhạc khí. Dàn nhạc cải lương thuần Việt ban đầu là dàn nhạc tứ tài tử, dần thay thế các nhạc khí mới dẫn đến những thay đổi bất ngờ, nhưng những thay đổi nhạc cụ, dàn nhạc bắt đầu từ các khuynh hướng sân khấu cải lương.



Năm 1921, cải lương tuồng Tầu, có dàn nhạc Quảng vào dàn nhạc cải lương.

Năm 1926, dàn nhạc phương Tây vào dàn nhạc cải lương. Các nhạc công cải tiến nhạc cụ phương Tây vào dàn nhạc cải lương:

Năm 1920, ông giáo Tiên đưa ghi ta vào dàn nhạc cải lương.

Năm 1925, Tư Chơi cải tiến đàn ghi ta phím cao.

Năm 1926, thành đàn ghi ta phím lõm.

Năm 1927, Tư Thạch đưa ghi ta Hawai vào cải lương.

Năm 1925, Sáu Tài chơi violon.

Năm 1926, lên giây cải lương sòn rê són (của Tư Hiệu).

Năm 1927, Tư Hiệu đưa Sello vào dàn nhạc cải lương.



Sự phát triển các dàn nhạc mới lạ vào cải lương, do yêu cầu công chúng. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, công chúng thích hát cải lương pha Quảng, thích dàn nhạc Tầu. Nhiều ban hát đưa cả hai dàn nhạc lên sân khấu, dàn nhạc tài tử đánh bài bản cải lương, dàn nhạc Quảng hoà tấu, đệm cho ca những bài hát Quảng đậm đặc, phong cách ca nhạc Trung hoa. Từ năm 1928 đến 1936, dàn nhạc Tây ngồi trước sân khấu cùng dàn nhạc tài tử. Dàn nhạc Tây có piano, kèn, trống tăng bua ranh… hoà tấu những bản nhạc Tây chào khán giả, kết thúc vở… thật hùng tráng, lộng lẫy đầy hấp dẫn. Theo phong trào tân thời du nhập các loại nhạc khí vào dàn nhạc cải lương, nhưng cuối cùng có những nhạc cụ phương Tây Việt hoá thành nhạc cụ của dàn nhạc cải lương. Đây là phương pháp đặc biệt của nghệ thuật cải lương, là cải lương hoá các trào lưu nghệ thuật đương đại vào cải lương. Phần ca nhạc, những nhạc cụ cải lương hoá thành công là hai nhạc cụ: ghi ta phím lõm và violon lên dây cải lương, quãng năm, quáng tám trở thành hai nhạc cụ trong dàn nhạc cải lương. Vào năm 1928, phát triển đầy đủ, hoàn chỉnh ca nhạc, dàn nhạc sân khấu cải lương, làm phong phú bản sắc âm nhạc và phong cách nghệ thuật cải lương, tiếp thu tinh hoa nền âm nhạc văn hoá thế giới để tồn tại, phát triển trước cuộc sống mới.

III. Mấy đặc điểm phong cách ca diễn cải lương một số ban hát

1. Khái niệm phong cách



Phong cách có nhiều khái niệm theo nghĩa rộng và hẹp, phong cách lối sống giản dị, phong cách lao động công nghệ, phong cách ngôn ngữ… nhưng phong cách nghệ thuật là phạm trù mỹ học. Phong cách nghệ thuật phản ánh sự thống nhất hữu hình tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, qua các phương tiện biểu hiện có tính độc đáo. Những đặc điểm phong cách thể hiện trên tác phẩm những nguyên tắc cấu trúc nội dung, hình thức như một quy luật phát triển nghệ thuật. Phong cách là cái riêng tạo ra những cảm nhận tác phẩm có thiên hướng về cảm xúc tình cảm, tư tưởng, phản ánh thế giới qua hệ thống hình tượng nghệ thuật mang tính thời đại.



Dựa trên những đặc tính khái quát phong cách nghệ thuật thuộc phạm trù mỹ học, nhìn lại sự ra đời những ban hát cải lương giai đoạn đầu thế kỷ XX, tuy còn non trẻ nhưng mỗi ban đã có phong cách riêng. Phong cách riêng mỗi ban hát thể hiện đặc tính thẩm mỹ, đáp ứng từng đối tượng khán giả. Nhận rõ ý thức phong cách là sự sống còn của nghệ thuật, mỗi ban hát ra đời tạo dựng một phong cách, dù khuynh hướng có ban mang nhiều khuynh hướng, nhưng phong cách chỉ có một. Ban hát cải lương Năm Tú, ra đời năm 1918, khuynh hướng diễn cải lương tuồng cổ, cải lương tuồng Việt, phong cách cải lương cổ thuần Việt. Năm 1919, Gánh hát kim thời Đồng bào Nam, khuynh hướng diễn cải lương đề tài cuộc sống mới, phong cách cải lương hiện thực xã hội. Năm 1924 Văn Hý ban, Tập ích ban, khuynh hướng diễn cải lương tuồng Tầu, phong cách cải lương tuồng cổ Việt Hoa. Năm 1925, Phước Cương diễn cả ba khuynh hướng: tuồng Việt, tuồng Tầu, tuồng Tây, phong cách cải lương pha trộn ba nền văn hoá Việt Hoa và phương Tây. Năm 1927, ban Trần Đắc khuynh hướng diễn cải lương Pháp Việt, phong cách pha trộn cải lương, kịch nói phương Tây, thể hiện sự thích nghi môi trường xã hội của sân khấu cải lương. Nghệ thuật cải lương luôn biến đổi, không định hình một khuynh hướng, một phong cách từ xưa và mãi mãi cải lương không định hình. Sự định hình của nghệ thuật cải lương chỉ là tương đối, có thể thấy các dạng định hình như cải lương tuồng cổ dựa theo những câu chuyện dân gian, cổ điển thuần Việt, cải lương tuồng Tầu, cải lương tuồng Pháp, Pháp – Việt… Nhưng sau một thời gian công diễn trước công chúng năm, mười năm những khuynh hướng ấy, phong cách ấy, trở thành quá khứ lịch sử. Qua các khuynh hướng diễn cải lương, biểu hiện cải lương có tính xu thời, luôn chạy theo thời cuộc, thị hiếu thẩm mỹ công chúng. Đây là những đặc điểm cải lương, luôn biến đổi, vận động để tồn tại. Ngay giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX, các ban hát cải lương ra đời biểu hiện tính cạnh tranh quyết liệt gây ra những đổ vỡ và tồn tại theo nguyên tắc mạnh được, yếu tan, đó là một quy luật của nghệ thuật thị trường.



Những khuynh hướng, phong cách diễn cải lương từng ban hát qua mỗi giai đoạn đáp ứng thị hiếu công chúng, trở thành văn đàn cải lương trên mọi miền đất nước. Năm 1926, sân khấu cải lương phát triển mạnh, lần đầu tiên các ban hát ra Bắc lưu diễn và trở về Trung Kỳ, nhờ đó cả nước ra đời một sân khấu kịch hát, có đặc điểm nghệ thuật các vùng miền.



2. Tác giả, tác phẩm



Sự phát triển nghệ thuật nhờ vào đội ngũ tác giả, sân khấu cải lương biểu hiện những khuynh hướng mới, mỗi khuynh hướng của một ban hát do tác giả tạo dựng nên. Những ban hát cải lương có phong cách riêng nhờ chủ trương của các ông bầu, những ông bầu phụ trách ban hát là nhà chỉ đạo nghệ thuật, đạo diễn, lãnh đạo quản lý tổ chức diễn viên, và quan trọng hơn là quản lý doanh thu, để ban hát tồn tại. Mỗi ban hát cải lương ra đời phải có một tác giả riêng, tác giả viết vở cho ban hát, vì thế mới có phong cách và khuynh hướng hoạt động nghệ thuật.



Phong cách mỗi ban hát biểu hiện qua khuynh hướng trong mối quan hệ tổng hợp sân khấu, từ vở diễn đến nghệ thuật diễn viên. Tuy vậy, không phải tác giả kịch bản nào cũng có phong cách riêng, nhìn lại nhiều tác giả sân khấu đương đại nửa thế kỷ sân khấu Việt Nam, chỉ có thể thấy một số tác giả có phong cách, còn phần đông là giống nhau. Các tác giả giống nhau trong cấu trúc tác phẩm, nội dung đề tài, ngôn ngữ văn học. Những tác giả có phong cách, là tác giả thoát ra khỏi trào lưu sáng tác kịch bản chung, tìm đề tài, hướng phản ánh riêng, có nguôn ngữ văn học riêng kiểu như phong cách Tào Mạt, Doãn Hoàng Giang, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khắc Phục, Xuân Trình, Lưu Quang Vũ… Còn quá ít trước một đội ngũ tác giả có tới năm bảy trăm người. Riêng tác giả sân khấu cải lương đương đại, tính cả chuyên nghiệp và không chuyên, tuy là không chuyên nhưng họ đã có vở được các đoàn dựng ở trong Nam có khoảng bốn trăm người, ngoài Bắc khoảng năm, sáu người, con số này không nhỏ. Nhưng sân khấu hôm nay không có công chúng vì thiếu tác giả, thiếu tác phẩm đáp ứng công chúng bằng những khuynh hướng, phong cách cải lương mới. Trở lại sân khấu cải lương giai đoạn đầu phát triển có một số tác giả, nhưng họ là những người mở đường các khuynh hướng, phong cách sân khấu cải lương.



Khuynh hướng diễn cải lương tuồng cổ thuần Việt, Trương Duy Toản, ông có hàng loạt các vở: Kiều, Kiều xe duyên cùng Từ Hải, Kiều Hoạn Thư, Kiều gặp Đạm Tiên, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Trang tử cổ bần… Khuynh hướng diễn cải lương đương đại, tác giả Trần Phong Sắc có các vở: Thu phú phụ bần, Cô ba lưu lạc, Bội thê thiên xử… Tác giả Đặng Công Danh các vở: Duyên chị tình em, Tứ đổ tường (1925), Tư Trang vở Lửa đỏ lòng son… Nguyễn Công Mạnh vở Giọt máu chung tình, Bạch Thu Hà…



Khuynh hướng diễn cải lương tuồng Tầu, tác giả Nguyễn Trọng Quyền (Mộc Quán) vở Thế nhận Oan ương, Lưu hiếu nữ, Tây sương Ký, Châu Trần phải nghĩa, Tình phai phấn lạt… Tác giả Đào Trí Phú (Đào Châu), vở Kỳ duyên phố, Triệu Trinh Nương… Nguyễn Công Mạnh vở Sử cấm bình kháo võ, Thất huyền Quyên, Phụng Nghi Đình, Mộc quế anh dâng cây, Anh hùng đại náo Tam môn nhai… Đặng Công Danh vở Tam trinh xuất thế, Khai trương ban hát Phước Cương tại rạp Modecnơ, nay là rạp chiếu phim trên đường Lê Thánh Tông thành phố Hồ Chí Minh.



Khuynh hướng diễn tuồng Tây, tuồng Tầu, tuồng Pháp – Việt, ngô Vĩnh Khang vở Tơ vương đến thác (LaDame aux camelias), Đặng Công Danh vở Sĩ vân công chúa (Tristan et iseuet)… Năm Châu vở Giá trị và danh dự (1925), phỏng theo kịch LeCid của Cornelle…



Những tác giả cải lương là người viết kịch bản cải lương, họ nắm vững bài ca và cấu trúc kịch bản, viết thẳng vào sân khấu cải lương đã có 12 tác giả, số vở diễn khoảng 35 vở, là những vở diễn nổi tiếng được công chúng hâm mộ. Nhiều vở có cốt truyện hay như Trang tử cổ bồn, Kiều Hoạn Thư, Kiều xe duyên cùng Từ Hải, Cô ba lưu lạc, Kiều Nguyệt Nga, Tây Sương Ký (Dưới mái tây hiên), Giá trị và danh dự… Nhiều vở diễn tiêu biểu cho những khuynh hướng, phong cách cải lương, đó là sự phát triển sân khấu cải lương, những vở diễn còn để lại giá trị nghệ thuật diễn ngày đầu ra đời sân khấu cải lương và quá trình phát triển cải lương Nam Bộ.



3. Nghệ thuật biểu diễn



Nghệ thuật diễn cải lương hình thành, ra đời từ ba yếu tố sân khấu, một là trò diễn carabộ, có tính nguồn gốc ngôn ngữ hành động diễn là ca và bộ. Ca và bộ, không phải theo trụ bộ hành động của tuồng mà bộ của cải lương có hai giá trị hành động. Giá trị thứ nhất, bộ là ra bộ minh hoạ giải nghĩa cụ thể ý lời ca miêu tả, ca đến đâu, bộ đến đó. Giá trị thứ hai, bộ là ra điệu bộ theo điệu hát, điệu hát mạnh, điệu bộ mạnh, điệu hát nhẹ, điệu bộ nhẹ. Điệu bộ theo ca không phải minh hoạ cụ thể lời ca mà điệu bộ ở đây là động tác diễn kể, có hành động cụ thể, thể hiện sắc thái tình cảm nhân vật từ lời ca, lời thoại, lời thơ. Đây là ngôn ngữ đặc trưng nghệ thuật diễn cải lương . Yếu tố thứ hai, ngôn ngữ hành động ra bộ bắt nguồn từ cải cách hát bội, mở đầu từ điệu hát Nam, hát Khách, nhưng các nghệ sĩ carabộ sáng tạo thành hình thức nói lối cải lương. Yếu tố thứ ba, ngôn ngữ ra bộ xuất phát từ sự ảnh hưởng kịch nói Pháp, hành động bộ từ ngôn ngữ hành động kịch nói, nhưng cải lương hoá mềm đi thành hành động điệu bộ cải lương. Đây là đặc trưng ngôn ngữ bộ hành động ngôn ngữ diễn cải lương.

Sân khấu cải lương mới ra đời, vở diễn đầu tiên vở Kim vân Kiều của Ban hát Năm Tú, còn lưu danh trong giới nghệ sĩ như Hai Cúc, Hai Nhiêu, Kép Bảy Thông, Tám Cang… Các nghệ sĩ diễn cải lương theo cải lương tuồng cổ, những động rác ra bộ diễn minh hoạ chậm theo hình thức ca nhạc tài tử carabộ. Các vai diễn gần với hình thức ca nhạc sân khấu cải lương hơn là hình thức diễn nội tâm nhân vật, hành động diễn theo điệu bộ và minh hoạ - vở cải lương đầu tiên chinh phục công chúng bằng nghệ thuật ca là chính, nghệ thuật diễn được công chúng tiếp nhân qua phần thân phận nhân vật với lời ca ngọt mùi. Nhận xét nghệ thuật diễn vở Kim Vân Kiều nhiều nghệ sĩ Nam Bộ cho là diễn theo lối cải lương cổ, điệu bộ tuồng Tầu, diễn cải lương ảnh hưởng Tầu hay Việt có vẻ khó xác định. Bởi chính cô hai Cúc người trong cuộc không nói gì về những nhận xét của người ngoài cuộc, nhưng xem cách bài trí sân khấu, xuất phát từ câu chuyện văn học thuần Việt với quan niệm nho giáo của tác giả Trương Duy Toản, ông là người Tây học, nhưng ông lại hơi nghiêng về nho giáo và văn hoá Việt. Nên có thể suy đoán hình thức diễn cải lương đầu tiên là lối trình diễn carabộ, cách điệu cao thành hành động diễn cải lương thuần Việt theo hình thức sân khấu tả thực. Suốt năm 1918, ông Toản thường viết những vở cải lương tuồng Việt, sang năm 1919, mới có những vở tuồng Tầu, trong đó vở Trang Tử cổ bồn là vở tuồng trích truyện Tầu đầu tiên ông thể hiện khuynh hướng cải lương tuồng Tầu theo quan niệm giáo lý phong kiến Việt Nam. Nghệ thuật diễn cải lương vở Kim Vân Kiều là sự kết hợp các lối diễn hành động tả thực của carabộ, hành động ngôn ngữ kịch nói, nhưng nghệ thuật diễn chính là ca và bộ theo phong cách cải lương tuồng cổ.



Nghệ thuật diễn từ năm 1919, xuất hiện ngôn ngữ hành động mới từ những vở cải lương đề tài cuộc sống mới, các nhân vật diễn tự nhiên đi lại gần với hành động con người cuộc sống. Đây là ngôn ngữ diễn kịch nói, nhưng đã nhẹ hoá thành ngôn ngữ cải lương, cách điệu hành động con người cuộc sống hiện thực. Đó là ngôn ngữ hành động cải lương. Nghệ thuật diễn cải lương tả thực của các nghệ sĩ nổi tiếng: Cô Ba Đắc, Hai Cúc, Hai Nữ, Hai Nhiêu, Phùng Há, Năm Phỉ, Ba Liên, Ngọc Xứng, Ngọc Sương, Thanh Tùng, Long Ngà, Hai Nhỏ, Cô Năm, Bảy Nam, Tư Hương, Kim Thoa, Ngọc Bích, Sáu Thôi, Ba Xuân, Ngọc Phương, Ba Viện, Bảy Lựu, Tư Bé, Tư LeNơ, Ba Nhàn, Bảy Lựu, Chín Lê, Tư Huề, Ba Điều, Tư Nhỏ, Tư Sang, Chín Lê, Chín Thêu, Mười Nhường, Kim Hui, Ba Mật, Sáu Ty, Sáu Trâm, Ba Vinh, Sáu Huề, Tư Huề, Hai Hiếu, Ngọc Xoa, Kiều Mỵ, Kiều Loan… Khoảng trên 40 nghệ sĩ nữ khá nổi từ năm 1918 đến 1930, là một lực lượng diễn mạnh để phát triển cải lương. Sánh vai bên những cô đào có nhiều kép nổi danh như Tư Chơi, Văn Chuông, Bảy Nhiêu, Năm Hỷ, Lâm Sanh, Dương Hoà, Đại Hồng, Song Hưng, Tư Anh, Năm Châu, Tư út, Tư Thới, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Hữu Phước, út Trà Ôn, Tư Dậu, Tư Thạch, Hai Tỷ, Tư Đề, Tám Mẹo, Ba Du, Hai Ngời, Hai Bông, Năm Tỵ (hề), Sáu Chánh, Tám Danh, Sáu Chương, Năm Định, Bảy Nhỏ, Bảy Thành, Sáu lê, Hai Lợi, Hai Trì, Ba Thâu, Năm Thiềng, Tư Trang (Trần Hữu Trang), Ba Giỏi, Ba Duy, Năm Thắng, Ba Châu, Ba Đổng, Chín Món, Năm Kiệt, Hai Sự, Tư Long, Năm Long, Tư út, Tư Mão, Ba Cương, Mười Bửu… Những đào kép nổi danh này thường là diễn viên trụ cột của nhiều ban hát, nhờ có lớp nghệ sĩ đầu tiên xây dựng cải lương ngày càng phát triển trong thời đại mới.



Nghệ thuật diễn ngày một nâng cao, từ chỗ diễn theo hát bộ của carabộ và tuồng, dần hình thành các loại ngôn ngữ diễn cải lương: Kỹ thuật ca và bộ, múa cải lương. Đây là những đặc trưng ngôn ngữ mới ra đời từ sự phát triển sân khấu cải lương. Nghệ thuật diễn bộ có nhiều ngôn ngữ hành động diễn tả hình tượng nhân vật, hình tượng nghệ thuật vở diễn, xuất phát từ các khuynh huớng diễn cải lương. Từ những động tác ra bộ minh hoạ lời ca, tả thực, như thực đến tả thực cách điệu, ước lệ ngôn ngữ hành động kết hợp ngôn ngữ múa làm cho nghệ thuật diễn có hành động hoàn mỹ. Giai đoạn đầu phát triển cải lương đã hoàn thiện các mặt đội ngũ:



- Tác giả, tác phẩm

- Diễn viên chuyên nghiệp

- Nghệ thuật diễn

- Nghệ thuật hoà tấu dàn nhạc

- Tổ chức đoàn hát có khuynh hướng, phong cách riêng.



Nghệ thuật cải lương tương đối hoàn chỉnh các mặt hoạt động nghệ thuật, để tiếp tục phát triển trước công chúng hâm mộ lan toả trên cả nước.



4. Âm nhạc và mỹ thuật



A. Âm nhạc

Âm nhạc cải lương góp phần khẳng định khuynh hướng, phong cách cải lương, hỗ trợ cho toàn cảnh sân khấu là mỹ thuật. Âm nhạc, mỹ thuật là hai loại hình nghệ thuật phù trợ góp phần nổi bật đặc trưng phong cách sân khấu cải lương từng ban hát.



Âm nhạc cải lương từ năm 1918 đến 1920, sử dụng bài bản ca nhạc tài tử của những ban hát carabộ thường diễn doanh thu ở những nơi đông người. Vốn ca nhạc ấy có bài Oán chủ đạo của ca nhạc cải lương, bài Oán hát với nhiều tâm trạng nhân vật, tình huống sân khấu, xen giữa bài Oán, bài Cổ Thi có nói lối, nói dặm, ngâm thơ, nói thơ Nam Bộ. Nói thơ một hình thức gần với hát nói có vần điệu, còn ngâm thơ là ngâm Kiều, lẩy Kiều, là một làn điệu cải lương đến nay thường hay sử dụng khá đặc sắc. Từ năm 1920, xuất hiện bài Dạ cổ hoài lang chỉ là thêm một chút màu sắc, bài Oán vẫn là bài hấp dẫn công chúng với những ca sĩ ca nổi tiếng như Ba Đắc, Tư Sự, Bảy Nhiêu, Năm Nở, Năm Phỉ, Phùng Há, Hai Cúc, Tư Hương… vào năm 1925, bài Vọng cổ có giá trị ngang bài Oán, và nổi hơn bài Oán, bởi được các nhạc công Giáo Tiên đưa ghi ta đệm cho bản Vọng cổ, Sáu Tài chơi Violon… Đầu năm 1927, Bảy Thạnh chơi ghi ta hauayen đệm cho ca Vọng cổ, thực sự nổi tiếng không chỉ là giọng ca hay của những cô đào, còn có tiếng ghi ta viên độc đáo tung hứng với nhau làm người nghe khâm phục tài nghệ đàn ca. Sự hỗ trợ của các nhạc công bằng kỹ thuật biểu diễn điêu luyện, với những âm sắc khác lạ của những nhạc khí phương Tây cải lương hoá làm mất vai trò bài Oán, bài Vọng cổ dần độc chiếm ca nhạc cải lương. Qua đó, cho thấy vị trí quan trọng của các nhạc công xưa góp phần không nhỏ tôn vinh các giọng ca, tôn vinh nghệ thuật cải lương. Từ ca nhạc tài tử – carabộ – tiến lên ca nhạc cải lương là quá trình phát triển kỹ thuật ca nhạc.



Kỹ thuật âm nhạc tiến một bước dài nâng cao kỹ thuật cá, nhân xuất hiện những nhạc công độc tấu ghi ta viên, hoà tấu tung hứng cùng ca sĩ chạy ngón biến tấu làm mưa, làm gió trên cây đàn ghi ta. Sự phát triển kỹ thuật mới, những âm sắc mới của các loại nhạc khí đủ sức thu hút công chúng hâm mộ các đào kép cùng nhạc công tài năng. Từ năm 1927, xuất hiện ghi ta phím lõm đàn cho bài Vọng cổ lại thêm một nhân tố mới tô đậm bài Vọng cổ. Bài Vọng cổ có hai nhạc khí mầu sắc ghi ta viên, ghi ta phím lõm, hai loại đàn này không cùng hoà đệm cho bài Vọng cổ. Tuỳ từng ban hát, mỗi ban chỉ sử dụng một loại, có cái này không có cái kia, lúc mới xuất hiện ghi ta hawai (viên), hấp dẫn hơn ghi ta lõm, bởi chất âm thanh nó tạo ra nhiều bồi âm như âm thanh điện tử, óng ánh như kim cương, long lanh mỹ miều, có phần xa xăm huyền ảo, nhưng thiếu cái thật của tiếng đàn con tim. Ghi ta viên hết sức hấp dẫn đến kinh ngạc khi mới xuất hiện, lúc ấy ghi ta hauayen, ghi ta viên như cô gái son phấn mầu mè, chẳng bao lâu đã rơi vào quá khứ. Ghi ta lõm phím độc chiếm sân khấu cải lương với bài Vọng cổ. Sự độc tôn này hoà nhập ăn ý với nhau từng ngón nhấn, từng âm rải chờ đợi nhau giữa ca và đàn, người đàn chạy ngón dạo chơi chờ người ca xuống hò câu Vọng cổ, người đàn cùng hạ một âm chết lặng tình đời. Đó là sự thành công hoàn mỹ đàn ca, phát triển đến không cùng bài Vọng cổ, cứ chạy đua mãi trên sân khấu cải lương. Những nghệ sĩ nổi danh thường bắt đầu từ ca, còn diễn như là để lại thêm ấn tượng cho ca. Vì thế công chúng gọi là nghe ca cải lương và xem hát bội, đó là lối thẩm mỹ cải lương xưa. Ai thích xem diễn thì đến xem hát bội, đến cải lương là nghe ca và đuổi theo đào kép đẹp, giọng ca hay. Ngày nay, nghệ thuật diễn cải lương nâng cao rất nhiều, chiếm lĩnh chủ đạo sân khấu, nhưng công chúng thường vỗ tay cho câu Vọng cổ xuống hò. Diễn viên nào ca Vọng cổ không giỏi không thể nổi tiếng, đó là dấu tích của ca nhạc tài tử cải lương, là đặc điểm thẩm mỹ ca nhạc cải lương. Một thế mạnh chưa có dàn nhạc sân khấu nào có sức chinh phục công chúng bằng dàn nhạc cải lương.



Kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc cải lương phát triển đến đỉnh cao về tổ chức dàn nhạc, nghệ thuật hoà tấu các loại nhạc khí, kỹ thuật độc tấu bài bản hoà cùng dàn nhạc có tính tài tử và tính ăng săm dàn nhạc. Đây là kỹ thuật đặc biệt độc đáo của dàn nhạc cải lương, không có người chỉ huy dàn nhạc thì người đàn người ca, người độc tấu nhạc khí vẫn tự do và hoà nhập. Người chỉ huy dàn nhạc chỉ xuất hiện trong các dàn nhạc cải lương từ năm 1956, ở ngoài Bắc, sau năm 1975 ở trong Nam, còn các dàn nhạc tài tử, người chỉ huy là người đánh phách gõ nhịp, còn nữa nhịp hoà đồng là ở con tim mỗi người, đó chất tài tử của cải lương. Ca nhạc cải lương phát triển cùng sân khấu cải lương hoàn chỉnh các mặt, các khuynh hướng phong cách dàn nhạc:



- Dàn nhạc tài tử cải lương: đàn ghi ta phím lõm, đàn cò, đàn tranh, đàn kìm…

- Dàn nhạc Quảng: Tiu, cảnh, chũm choẹ, hồ, tiếu, nhị, sáo.

- Dàn nhạc Tây: Ghi ta gỗ, kèm trompette, cla, piano, violon, trống tăngbuaranh, sello, flutte…

Sự phát triển phong phú dàn nhạc cải lương, là những bước phát triển âm nhạc, kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc, sự phong phú màu sắc âm nhạc mang đậm tính dân tộc và thời đại. Những dàn nhạc cải lương ra đời, đáp ứng các khuynh hướng diễn cải lương của các ban hát, đáp ứng các hướng thẩm mỹ cải lương của công chúng. Sự phong phú dàn nhạc cải lương, kỹ thuật ca diễn trên các hướng ca cải lương.



Kỹ thuật ca phát triển ca bài bản, ca ngâm làn điệu, ca Vọng cổ, hát ca khúc mới. Kỹ thuật hát ca khúc mới là kỹ thuật ca bài bản cải lương hoà cùng ca khúc mới. Đây là sự khác biệt kỹ thuật ca cải lương với ca khúc mới, những nghệ sỹ cải lương không hát kỹ thuật ca khúc mới! Kỹ thuật hát ca khúc được cải lương hoá bằng lối ca bài bản, làn điệu dân ca và xử lý ca khúc mới. Kỹ thuật này bắt nguồn từ lối ca cải lương pha Quảng, lối hát ly điệu, điệu cải lương với những bài hát Quảng đã cải lương hoá những bài hát Quảng. Từ kỹ thuật hát cải lương pha nhạc Quảng chuyển thành ca cải lương pha ca khúc mới, đó là sự thành công kỹ thuật hát ca khúc mới.



Kỹ thuật hát cải lương pha Quảng xuất hiện từ năm 1921, đã trở thành thói quen thẩm mỹ công chúng, là thói quen của nhiều nghệ sĩ ca cải lương, đến năm 1924 trở thành điêu luyện. Đó là một phát hiện mới về kỹ thuật ca. Nghệ thuật ca cải lương mỗi lần phát triển nhân tố mới là một bước hấp dẫn công chúng, làm mới âm nhạc cải lương. Sang năm 1925, xuất hiện lối hát ca khúc mới, là những bài hát Pháp, hát lời ta điệu tây, hoặc điệu tây, lời Tây ngày một nâng cao, hấp dẫn khán giả. Từ năm 1926, thêm kỹ thuật mới vào bài Vọng cổ, là kỹ thuật ca Vọng cổ nhịp tư, mở rộng khung nhịp kết nối Cổ thi, Vọng cổ với ca khúc mới. Kỹ thuật ca đến năm 1925, ca cải lương đã có các loại kỹ thuật:

- Ca bài bản cải lương

- Hát ca khúc mới với bài bản cải lương

- Ca Vọng cổ, nói lối, nói thơ Nam Bộ liên kết với hát ca khúc mới.

Sự phong phú kỹ thuật ca cải lương, là tiền đề cho bước phát triển kỹ thuật ca cải lương sau này. Nghệ thuật ca cải lương đến năm 1925, đã có đủ các loại kỹ thuật ca, kỹ thuật ấy là nền tảng kỹ thuật ca tồn tại đến nay. Ngày nay các nghệ sĩ luôn sáng tạo nhiều lối ca mới, nhưng chỉ là dựa trên những kỹ thuật ca cơ bản đã có phát triển nâng cao theo tài ca của mỗi người. Đây là sự sáng tạo đến không cùng của kỹ thuật ca bài bản, ca làn điệu, ca Vọng cổ và hát ca khúc mới của kỹ thuật ca cải lương.



Nghệ thuật âm nhạc đến năm 1925, hoàn chỉnh các dàn nhạc, các khuynh hướng dàn nhạc, kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc, kỹ thuật độc tấu các nhạc cụ trong dàn nhạc cải lương. Ngày nay dù dàn nhạc cải lương có biến đổi, vận động phát triển phải dựa trên nền tảng dàn nhạc tài tử cải lương. Nếu mất dàn nhạc tài tử cải lương, chắc sân khấu cải lương sẽ chuyển sang một hình thức khác. Dàn nhạc cải lương xuất hiện cùng các hướng diễn cải lương, các hướng ca cải lương, xuất hiện nhiều mô hình dàn nhạc khác nhau, kỹ thuật ca khác nhau, nhưng không thoát khỏi dàn nhạc tài tử và kỹ thuật ca cải lương. Dù dàn nhạc tài tử là một mô hình “ổn định”, nhưng ngay mô hình ấy chỉ ổn định tương đối, bởi các nhạc cụ trong dàn nhạc tài tử luôn thay đổi. Có dàn nhạc lấy đàn ghi ta phím lõm thay thế cả dàn nhạc, có dàn nhạc tứ, ngũ, lục, tam tài tử… Không ít ban hát có dàn nhạc tài tử chỉ có một, hai đàn dân tộc, nhưng có đoàn lại sử dụng bốn năm, đến 20 nhạc cụ dân tộc… Mô hình dàn nhạc cải lương luôn biến đổi, nhưng chất kỹ thuật, cấu trúc dàn nhạc tài tử không thay đổi, đó là đặc điểm dàn nhạc và ca nhạc cải lương. Nghệ thuật cải lương không mất đi bản chất cải lương là chất kỹ thuật diễn tấu tài tử, sự cấu trúc dàn nhạc tài tử, kỹ thuật ca cải lương tài tử. Những nhân tố kỹ thuật ấy, giữ vững bản sắc ca – nhạc sân khấu cải lương, luôn biến đổi và tồn tại.



B. Mỹ thuật sân khấu cải lương.



Mỹ thuật sân khấu cải lương nâng cao nghệ thuật cải lương, trang trí, hoá trang, phục trang là mối quan hệ tổng hợp biểu hiện khuynh hướng cải lương. Ngay từ khi ra đời sân khấu cải lương, mỹ thuật cải lương tả thực, từ ngày đầu diễn carabộ, mỹ thuật cải lương tạo sân khấu không gian ba chiều và cảnh trí tả thực.



Năm 1912, hát carabộ của ban Audre Thận, Sáu Súng, Hai Cu… sân khấu giới hạn phía sau bằng cái phông màu trắng gọi là Foud, hai bên sân khấu trái, phải trang trí cây cảnh. Đó là phôi thai sân khấu cải lương đầu tiên về trang trí mỹ thuật, hình thành một lớp diễn carabộ tiền thân của sân khấu cải lương. Khi ra đời sân khấu cải lương, Ban Năm Tú trang trí theo rạp hát Tây năm 1918 ở Sài Gòn, bày phông cảnh phông hậu, cánh gà, vẽ phông cảnh sơn thuỷ theo những cảnh trong vở Kim Vân Kiều. Mỗi cảnh vẽ phông trên vải lụa, hết cảnh diễn treo lên, sang cảnh mới lại thả xuống, vẽ cảnh thực theo nội dung cảnh diễn. Mở màn vở Kiều, ông Tú bày cảnh hoành tráng, đưa toàn bộ diễn viên phục trang theo các vai diễn ra hát chào khán giả, sau màn chào khán giả, mọi người vào hậu trường, mở cảnh mới bắt đầu vào câu chuyện kịch. Hình thức trình diễn này của ông Năm Tú ảnh hưởng nhạc kịch Opera qua màn Fơrelluytte, dạo đầu. Từ ban Năm Tú, các ban Tư Sự, Hai Cu (Đồng bào Nam, Nam đồng ban) Tái đồng ban, Tân Thinh… đua nhau trình diễn cải lương theo mỹ thuật tả thực. Từ năm 1921, mỹ thuật tả thực chuyển hướng tả thực như thật khi các ban Tập ích ban, Văn hý ban… diễn tuồng Tây. Mỹ thuật phục trang lộng lẫy tả thực chi tiết cụ thể hoá cảnh trí, tạo cảm giác sân khấu là như thật. Đây là sự khác biệt mới về quan niệm sân khấu cải lương, mỹ thuật tạo ra những quan niệm sân khấu mới. Ban đầu cải lương tả thực, kết hợp với cây cảnh thật từ trò diễn carabộ, tiến lên sân khấu cải lương, mỹ thuật tả thực tạo không gian sân khấu mỹ lệ hoá có tính ảo giác. Đây là đặc điểm độc đáo của sân khấu cải lương, cái ảo giác như thực mới là mỹ thuật nghệ thuật cải lương. Sự xuất hiện các ban hát cải lương diến tuồng Tầu “có đánh đồ thiệt” là bước chuyển mới. Một số ban đã kết hợp sân khấu ảo giác với sân khấu tả thực vào cải lương, họ tả thực đến như thật. Khuynh hướng mỹ thuật tả thực như thật xuất hiện vào năm 1926, là một phát hiện mới, đã lôi cuốn công chúng đến sàn diễn số đông, làm nhiều ban hát chạy theo lối trang trí tả thực. Khuynh hướng này kéo dài đến năm 1940, mới trở thành nhàm chán. Sau những năm 30 của thế kỷ XX, khuynh hướng tả thực, có đánh đồ thật hấp dẫn và lấn át các ban hát sân khấu gợi cảm ảo giác. Mỹ thuật sân khấu cải lương có các khuynh hướng:



- Tả thực - ảo giác.

- Hiện thực như thật.



Mỹ thuật phục trang cải lương gắn liền với các khuynh hướng diễn cải lương có các hình thức trang trí tả thực, như thật, cây cảnh thật, ảnh hưởng hoặc tiếp nhận gần như nguyên si sân khấu Triều Quảng, kịch hát opera. Mọi sự phát triển mỹ thuật cải lương theo trào lưu diễn cải lương, không ổn định, biến đổi chạy theo thị hiếu công chúng. Nhưng mỹ thuật phục trang cải lương đã hoàn chỉnh các hình thức nghệ thuật trang trí sân khấu, là hạt nhân cơ bản cho trang trí mỹ thuật sân khấu những giai đoạn sau.



IV. Vị trí xã hội của nghệ thuật cải lương.



Sân khấu cải lương ra đời vì sự mong đợi của công chúng trước xu huớng cải cách nghệ thuật, cùng vơi các phong trào cải cách xã hội đòi đổi mới. Những yêu cầu đổi mới văn hoá, nghệ thuật, lối sống đô thị… là những điều kiện phát triển sân khấu cải lương mang lại giá trị thẩm mỹ có tính thời đại. Những vở cải lương có tác dụng đẩy mạnh phong trào dân chủ xã hội, chống phong kiến thực dân, nêu cao tinh thần đổi mới, lòng yêu nước, chống áp bức, đòi độc lập dân tộc.



Vị trí của sân khấu cải lương ngay từ khi ra đời đã chiếm lĩnh lòng hâm mộ của công chúng, nhờ đó nhanh chóng phát triển từ một ban đến hàng chục ban hát khắp các tỉnh Nam Bộ. Sân khấu cải lương trở thành nơi hội tụ công chúng, nơi tâm sự cùng mọi người về đạo đức lối sống con người, tình cảm yêu thường đồng loại, nỗi lo lắng băn khoăn của lớp người cấp tiến, đặc biệt đề cao và giải thoát người phụ nữ trước vận mệnh dân tộc, đất nước. Sân khấu cải lương xuất hiện nhiều khuynh hướng khác nhau, không tập chung thống nhất vào một mục tiêu, mục đích có tính lãnh đạo hoặc định hướng chung. Mọi hướng diễn cải lương mang tính tự do, tự phát trong mỗi ban cải lương hoạt động tồn tại trong nền kinh tế xã hội thành thị, nhưng các vở diễn lại tập chung vào những nội dung thời sự xã hội. Đó là vị trí, vai trò quan trọng của sân khấu cải lương, thông qua những vở diễn góp phần cải tạo xã hội đem đến công chúng nhận thức mới về lối sống ứng xử xã hội. Sự phát triển cải lương là bài học lịch sử về tổ chức ban hát, đoàn hát, sự chiếm lĩnh công chúng và doanh thu. Mỗi ban hát muốn tồn tại cần có phong cách nghệ thuật, đội ngũ tác giả, diễn viên chuyên nghiệp hoá, tổ chức quản lý các mặt đạt hiệu quả: chất lượng nghệ thuật – doanh thu để tồn tại. Các ban hát cải lương tư nhân tự ra đời, tồn tại trong nền kinh tế thuộc địa tự do cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh bẩn. Dù trong tư liệu chưa tìm thấy bài nào nhắc đến lối cạnh tranh bẩn, nhưng nhiều nghệ sĩ cải lương kể lại trong các ban hát cải lương thường xảy ra những chuyện không đẹp. Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Dư, Nghệ sĩ ưu tú Lệ Thanh đã kể lại những thủ đoạn cạnh tranh bẩn của cac bầu chủ cải lương Hà Nội những năm 30 của thế kỷ trước. Còn các ban hát Nam Bộ xưa, những chuyện cạnh tranh bẩn không nổi cộm, bức xúc như ngày nay. Ngày nay, những năm 90 của thế kỷ XX, diễn ra nhiều chuyện cạnh tranh đào kép, sân bãi… của cac ban hát cải lương tư nhân. Những ban hát, đoàn hát cải lương những năm đầu thế kỷ trước nhanh chóng ra đời, tan rã rơi vào quên lãng là những bài học về sự tự do cạnh tranh tồn tại một sản phẩm nghệ thuật thị trường. Các ban hát không ai bao cấp, đỡ đầu tự hoạt động tồn tại, nên ngay khi mới ra đời họ cần có: đào kép hạng sao, vở diễn hay và quản lý các mặt có tổ chức khoa học. Những ban nào thiếu một trong ba điều kiện ấy sẽ nhanh chóng tan rã, bởi đó là sân khấu thương trường. Nghệ thuật sân khấu thị trường ngay những ngày đầu sân khấu cải lương đã có chỗ đứng trong công chúng, là vị trí không thể thiếu của một hình thức nghệ thuật. Sân khấu cải lương đã có vai trò lịch sử.

- Ra đời một hình thức sân khấu dân tộc bản địa Nam Bộ

- Có vị trí xã hội, là một kênh thông tin, diễn đàn văn hoá, tư tưởng tiến bộ nhằm giải thoát người phụ nữ và những người lao động.

- Sân khấu cải lương trở thành sức mạnh tập hợp công chúng, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần nhân dân trên mọi miền đất nước.



Giá trị nghệ thuật sân khấu cải lương giành được trong quá khứ lịch sử là tình cảm công chúng, yêu thích và hành động theo tinh thần tiến bộ thời đại. Mỗi ban hát cải lương góp phần cải tạo con người, cải tạo xã hội, hưóng tới thẩm mỹ văn hoá dân tộc và tiến bộ. Sự phát triển phức tạp những khuynh hướng, phong cách cải lương còn tiếp diễn ở những giai đoạn sau, nhiều hướng thẩm mỹ khác nhau. Nhưng ở giai đoạn đầu những nhân tố tiến bộ, tích cực xây dựng con người, xã hội mới qua nhiều vở diễn bộc lộ vai trò của sân khấu cải lương. Sân khấu cải lương như một động lực phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, hướng tới những giá trị chân chính. Giai đoạn đầu ra đời phát triển cải lương từ năm 1918 đến 1930, đã xuất hiện cao trào lần thứ nhất từ năm 1926 đến 1930, nhiều ban hát có số dông diễn viên, tổ chức nhiều đoàn hát lớn đi diễn ở trong nước và nước ngoài, đến cuối năm 1930 bắt đầu tan rã. Sau năm 1930 – 1936 cao trào sân khấu cải lương mạnh hơn, nhiều ban hát, nghệ sĩ nổi danh như sự bùng phát mới lạ hấp dẫn công chúng.



Lịch sử cải lương 3
Tuấn Giang

Chương III



Cao trào sân khấu cải lương từ 1930 đến 1945



I. Sự ra đời nhiều ban hát cải lương trên mọi miền đất nước



Cao trào sân khấu cải lương là giai đoạn tập chung dồn dập ra đời liên tục nhiều ban hát mạnh, nhiều vở diễn hay, tác giả, nghệ sĩ nổi tiếng. Cao trào tập chung những tinh hoa nghệ thuật so với quá trình phát triển sân khấu cải lương trong nhiều giai đoạn.



Sự phát triển cải lương giai đoạn 1918 – 1930, cao trào của giai đoạn từ năm 1926 đến 1930, nhưng phát triển cải lương từ năm 1930 đến 1945 là cao trào của hai giai đoạn. Đó là sự ra đời liên tục dồn dập các đoàn cải lương Nam – Bắc – Trung. ở Nam bộ hàng trăm ban hát lớn nhỏ đua nhau ra đời, nhiều bầu chủ bỏ vốn kinh doanh nghệ thuật cải lương, có các thành phần tham gia. Người là địa chủ, tư sản, cảnh sát, công tử Bạc Liêu, nhà báo… đứng ra lập các ban hát để chơi, hoặc kinh doanh. Những bầu chủ mới xây dựng các ban hát cải lương khẳng định ảnh hưởng, tác động lớn đến mọi tầng lớp xã hội. Nghệ thuật cải lương có vị trí quan trọng không thể thiếu trong đời sống văn hoá, xã hội. Sân khấu cải lương không chỉ đáp ứng công chúng, kinh doanh, kiếm sống, còn là thú chơi nghệ thuật của những người có danh tiếng vị trí trong xã hội. Vì nhiều lý do thiết thực, cải lương Nam Bộ phát triển mạnh dẫn đến cao trào, tập trung những giá trị mới về số lượng các ban hát, chất lượng nghệ thuật và diễn viên ngôi sao. Sân khấu cải lương Nam Bộ ảnh hưởng đến mọi miền đất nước, công chúng hâm mộ, ra đời nhiều ban hát cải lương trở thành môn nghệ thuật duy nhất có ở khắp vùng miền. Đó là sức mạnh chinh phục của nghệ thuật cải lương trước công chúng, trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam.



Sân khấu cải lương từ một hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật Nam Bộ, đã hội tụ nhiều nhân tố nghệ thuật đáp ứng công chúng yêu thích sân khấu trên cả nước.



1. Sự ra đời các ban hát cải lương Nam Bộ



Nghệ thuật cải lương tiếp tục ra đời các ban hát, trước kia còn tập chung ở một số tỉnh Nam Bộ như Mỹ Tho, Bạc Liêu, Cần Thơ… Chủ yếu là Mỹ Tho, nơi khai sinh sân khấu cải lương. Ngay giai đoạn một cải lương phát triển trên nhiều tỉnh Nam Bộ, sang giai đoạn hai mở rộng đến hầu hết tỉnh lỵ, các huyện thị, làng xã có ban hát và diễn cải lương.



Cuối năm 1929 - đầu năm 1930, ở Châu Đốc, ông Charler Hai, lập gánh Nhã tinh ban, diễn quanh tỉnh Tây Ninh như một thú chơi cải lương của riêng mình. Nhã tinh ban diễn cải lương các vở tuồng Tây – tuồng Việt, chủ yếu là tuồng Tây, có dàn nhạc Tây hoà tấu làm chủ sân khấu.



Ban Vạn phước của cô chủ Lai Pháp Giannơvaecdel, mời các diễn viên nổi tiếng: Mười Bửu, Tư út, Tám Cang, Ba Cương… diễn tuồng Tây, dàn nhạc Tây, đoàn hoạt động ba năm tại Sài Gòn, sau năm 1933 nghỉ diễn. Ban Nghĩa hiệp, chủ là cô Sáu Thôi ở Chợ Lớn cùng ông Trần Phong Sắc, lập ban diễn tuồng Tầu. Diễn viên tự đào tạo thế hệ mới là những người trẻ thành phố, chỉ có một số nghệ sĩ trụ cột: Ba Vân, Ba Xuân, Hữu Phượng, Tư Bồ, …



Ban Nam hưng, do Sáu Ngọ làm chủ, hoạt động sau hai năm tan rã, diễn viên có đào chính Bảy Năm, diễn cải lương tuồng Tầu.



Đồng nữ ban bầu chủ Ba Viện. Ban có phong cách độc đáo, diễn các loại tuồng, nhưng diễn viên toàn nữ không có nam. Các vai nam do nữ đóng, từ ban Đồng nữ, sau này cải lương có mốt các tướng nam do nữ đóng. Những nhân vật tướng võ do nữ đóng thay nam trong các vở cải lương, kéo dài hàng chục năm của những đoàn hát từ Nam ra Bắc. Cải lương Bắc đến năm 1954 mới hết nữ đóng vai võ tướng, cải lương Nam phải sau năm 1975 mới gần như chấm dứt các vai tướng võ do nữ đóng.

Cải lương Nam phát triển mạnh từ Sài Gòn đến các tỉnh cực Nam, có thể kể đến các tỉnh đồng bằng Nam Bộ.

Rạch giá, có các ban Tấn Thành, Nghĩa Thinh… Ban Tấn Thành diễn tuồng Tầu, đào kép: Xuân Thời, Tấn Thành, Bảy Bình, Hoa Nhi… hoạt động trên năm năm tan rã 1938.



Ban Nghĩa Thành, ra đời 1937, chủ ban là cô Ba Nghĩa, diễn tuồng Tầu là ban thứ hai diễn viên toàn nữ, diễn một số vở cũ như Bàng Quý Phi, Bao Công… vì không có phong cách riêng đoàn tan rã năm 1939.



Năm 1930, đoàn hát Phước Hưng của ông Năm Thời công diễn tại Cà Mau, đoàn chỉ diễn ở trong tỉnh, các đào kép không nổi, sau ba năm tan rã năm 1933.



Đoàn Thái dương ở Bạc Liêu, hoạt động sáu tháng tan rã. Bầu chủ là nghệ sĩ Thái Dương, tập hợp một số nghệ sĩ chung vốn thành lập ban, nhưng thiếu nhiều điều kiện nên không tồn tại lâu. Ban ra đời năm 1936 tan rã năm 1936.



Đoàn Chấn Hưng do ông Năm Thành và Chín Diệp bầu chủ, diễn cải lương kiếm hiệp kỳ tình của Mộng Vân. Có một số đào kép nổi tiếng: Mộng Vân, Bảy Cao, Năm Nghĩa, Ba Khuê… Đoàn có phong cách riêng diễn cải lương trinh thám qua những câu chuyện tình ly kỳ, đánh chưởng giật gân nên hấp dẫn công chúng. Sau này, Mộng Vân phát huy thế mạnh tiếp tục sự nghiệp của ban. Ban ra đời năm 1935 ra rã năm 1939 tại Bạc Liêu.



Đoàn Sở Sanh ra đời tại thành phố Cần Thơ, bầu chủ là nghệ sĩ Ba Sanh và hoạ sĩ Hai Sở. Đoàn diễn tuồng Tầu, do các diễn viên trẻ ở trong tỉnh đào tạo nghề ca diễn. Đoàn thường diễn những vở của các tác giả Nguyễn Công Mạnh, Ba Miêng, Thanh Sơn, các vở: Hàng Châu quy vị, Quách Sùng An…

Đoàn ái Nghĩa, Cần Thơ do một nhà giáo làm chủ, mua lại các đào kép ở các ban khác về diễn tuồng xã hội, tuồng Việt có các vở: Nặng gánh giang sơn của Ba Phát… Vì tổ chức không chặt, chưa đủ lực sau hai năm tan rã năm 1934.



Đoàn Long Phụng, chủ là Chín Quảng, một công tử Cần Thơ bỏ vốn lập gánh hát chơi. Từ thú chơi, bầu chủ thành kép chính diễn cùng các diễn viên. Đoàn diễn các loại tuồng Việt, thường là các vở của ban ái Nghĩa, sau ba năm tan rã năm 1935.



Từ năm 1926 một số ban hát cải lương ra đời mang tên bầu chủ, đến năm 1930, có hàng chục ban hát đứng tên riêng của các bầu chủ. Mỗi ban hát không cần thiết phải có tác giả biên kịch, họ có thể diễn lại những vở cải lương của các ban khác, đây là nét mới của giai đoạn cải lương lần thứ hai. Vì sự ra đời quá nhiều ban hát, không thể có đủ tác giả cho mỗi ban, nên mọi người chỉ quan tâm đến thành lập ban và lưu diễn doanh thu. Những chuyện bản quyền, độc chiếm các vở diễn trong khuynh hướng của mỗi ban, không còn quan tâm nữa, bởi sự trăm hoa đua nở không kiểm soát nổi các quyền lợi khác. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhiều ban hát, hợp tan, thoái trào sân khấu cải lương, nghệ thuật giảm sút mất công chúng. ở các tỉnh Nam Bộ tiếp tục ra đời nhiều ban hát cải lương, bởi còn đang là bước đầu giai đoạn hai dẫn đến cao trào cải lương. Thoái trào sân khấu cải lương từ năm 1939 đến 1945, còn 15 ban cải lương Nam Bộ.



Tại Long Xuyên có các đoàn hát:



Đoàn Tư Hoà, có các nghệ sĩ Tám Điền, Ba So, Tư Xe, Tám Củi, Sáu Mão… chuyên diễn tuồng Tầu. Ban ra đời năm 1932, tan rã năm 1935.



Đoàn Tân Đồng, chủ Ba Sô, chuyên diễn tuồng Phật và một số vở đương đại. Đoàn ra đời năm 1935, tan rã năm 1939. Diễn viên nổi Ba Đắc, Năm Thoàn, Hai Nhiêu… Đoàn có những vở nổi như Phật nhập niết bàn, Lỗi lầm…



Đoàn Hải Triều, bầu chủ là hoạ sĩ, ông chủ chương diễn tuồng Phật. Đoàn ra đời năm 1936, tan rã năm 1939. Dù những vở tuồng Phật cố ý làm mới lạ bằng lối trang trí sân khấu, nghệ thuật diễn có đánh đồ như thật, nhưng thiếu diễn viên ngôi sao đã nhanh chóng tan rã.



Đoàn Tân Thành, tỉnh Vĩnh Long, ra đời năm 1933, tan rã năm 1935. Diễn viên có: Hai Nữ, Ba Hồng, Ba Trường… Đoàn diễn cải lương đương đại, sân khấu đượm mầu văn học lãng mạng, trang trí thuỷ mạc sương khói.



Đoàn Trường Thịnh, bầu chủ Năm Bùi. Đoàn ra đời năm 1936 tan rã năm 1939. Đoàn diễn tuồng Tầu, sân khấu lộng lẫy, hoành tráng có đánh đồ thiệt.



Đoàn Tân Thinh Sa Đéc, bầu chủ Ba Thông. Ông diễn các loại tuồng đương đại, tuồng Tầu, tuồng Phật. Diễn viên: Ba Nghĩa, Ba Mảng, Hai Nữ, Hai Nhiêu… Đây là đoàn lớn nhất tỉnh Sa Đéc, họ thường chia làm hai đoàn diễn những vở cải lương tuồng cổ. Đoàn khai trương tại Sài Gòn năm 1930, tan rã năm 1944 ở Vĩnh Long.



Đoàn cải lương Đồng ấu, không rõ bầu chủ, họ tập hợp các em nhỏ diễn cải lương, có tác giả Lê Hoài Nở tức Năm Nở, Ba Phát viết kịch bản. Đoàn ra đời năm 1936, tan rã năm 1939 tại Sa Đéc.



Tỉnh Trà Vinh có đoàn Thanh Điền, bầu chủ là ông Tám Thạch. Đoàn ra đời năm 1939, tan rã năm 1941. Đoàn diễn cải lương tuồng Phật, tuồng xã hội. Diễn viên có Ba Điều, Hai Nhiêu, Tám Mẹo… Đoàn không tồn tại lâu vì phong cách diễn chưa rõ, doanh thu thấp không tồn tại.

Đoàn Dân Hồng, bầu chủ Sáu Cường. Ông diễn cải lương tuồng võ hiệp, đây là một hướng mới theo cải lương kiếm hiệp của Mộng Văn. ông cố tạo phong cách riêng, mỗi đêm diễn có màn đánh võ hấp dẫn, nhưng thiếu đào kép trụ cột đoàn đã tan rã.



Đoàn Phụng Hảo, do bà Phùng Há bầu chủ. Phụng Hảo ra đời năm 1936 tồn tại đến giai đoạn sau. Diễn viên Phùng Há, Năm Phỉ (1940), Tư Sạng, Hai Giỏi, Tư Chơi… Ban diễn tuồng Tầu, tuồng Việt. Những vở tuồng Tầu của Nguyễn Trọng Quyền và Nguyễn Công Mạnh. Những vở cải lương đương đại của Nguyễn Phong Sắc, Năm Châu. Đoàn diễn hai loại cải lương khá hấp dẫn, phần ca đượm mầu âm nhạc lãng mạn.



Đoàn Huỳnh Thanh ra đời tại Bến Tre, bầu chủ ông Năm Đào, chủ nhà máy xay, đầu tư cho ban hát. Ban chuyên diễn tuồng Tầu và các vở cải lương đương đại như Tham phú phụ bần, Trường tình bí mật, Giữ lời non nước…



Đoàn Long Vân, ra đời tại huyện Ba Tri, Bến Tre. Bầu chủ Ba Giỏ, Ba Sanh. Ban chuyên diễn tuồng Tầu của Mộng Vân, Ba Phát. Diễn viên có Ba Giỏ, Ba Sanh, Tư Mão, Hai Nhiêu, Tám củi… Ban khai trương năm 1938, tan rã năm 1940, tại Bến Tre.



Đoàn Tân Đồng Minh, ra đời tại Bến Tre, năm 1934 tan rã năm 1937. Bầu chủ Văn Cảnh, chuyên diễn tuồng Tầu, có các vở: Tống Địch Thanh, Thất Huyền Quyền, Phụng Nghi Đình của Văn Cảnh.



Đoàn Thái bình, ra đời năm 1938, tan rã năm 1944 tại Bến Tre. Bầu chủ Ba ngọc, chuyên diễn cải lương đương đại, các vở: Một tấm lòng son, Mảnh gương đời, Ăn mày đã muộn… do chính bầu chủ biên soạn và đạo diễn. Tuy nhiên, đạo diễn xưa là tập cho diễn viên vào từng vai rồi ghép lại thành vở diễn. Vì thế có đoàn bỏ nhiều tiền luyện tập công phu, sau đó diễn được ít ngày bị vỡ gánh, do thu không đủ chi.



Đoàn Vạn Phước, ra đời năm 1938, tan rã năm 1943 tại Bến Tre. Bầu chủ Ba Vạn chủ nhà hàng khách sạn, thú chơi cải lương đã lập ban hát. Ban chuyên diễn tuồng cải lương kiếm hiệp kỳ tình của Mộng Vân.



Đoàn Đồng Thinh, ra đời năm 1938, tan rã năm 1940 tại Bến tre. Bầu chủ là nghệ sĩ Ba Liên, chuyên diễn tuồng Tầu, các vở: Tôn Tẫn hạ sơn, Hoa mộc lan của Sáu Đỏ, một số vở kiếm hiệp kỳ tình của Mộng Vân.



Đoàn Nhạn Trắng, bầu Huỳnh Hữu Huân ra đời năm 1926, ra Hà Nội năm 1944, tan rã.



Đoàn Nhạn Trắng ra đời 1930, bầu chủ Ba Quận, năm 1944 ra Quy Nhơn năm 1945, ra Vinh, ra Hà Nội. Các diễn viên ái Hựu, Cò Lý, Ngọc Sương, Ba Khuê… diễn cải lương xã hội.



Tại tỉnh Mỹ Tho có các đoàn: Tân Phong, Vạn Phước… Đoàn Vạn Phước diễn tuồng Phật các vở Phật nhập miết bàn, Quan âm bồ tát…Đoàn thành lập năm 1936, tan rã năm 1939.



Đoàn Tân Phong, bầu chủ Hai Châu, đoàn diễn tuồng Tầu, các vở: Kiếm khách, Tây du ký, Bồng lai hiệp khách… Đoàn công diễn năm 1937, tan rã năm 1939.



Đoàn cải lương Tân An, ra đời tại tỉnh Tân An, bầu chủ là một thương gia, ông chủ chương đào tạo diễn viên trẻ, nhưng hoạt động được một năm thì tan rã.



Đoàn An Lạc, ra đời tại Tân An năm 1938, tan rã năm 1944. Bầu chủ là nghệ sĩ Tám Quảng, tập hợp một số đào kép nên hấp dẫn và tồn tại. Đoàn chủ chương diễn cải lương đương đại, nói về những người lao động nông thôn của hai soạn giả: Tám Quảng, Ba Miêng.



Tại Gò Công có các ban cải lương: Hồng nhật và nhiều đoàn nhỏ, nhưng nhanh chóng tan rã. Đoàn Hồng nhật có các nghệ sĩ: Tư Lực, Năm Diệp… Đoàn diễn tuồng Tầu, có múa võ, múa sinh hoạt Triều Quảng mới lạ hấp dẫn. Đoàn Hồng nhật ra đời năm 1939, tan rã năm 1944 tại địa phương.



Điểm qua sự ra đời các ban cải lương đồng bằng Nam Bộ, có 70 ban hát, trong đó có 35 ban tên tuổi, diễn các loại cải lương:



- Cải lương kiếm hiệp La mã năm 1935

- Cải lương tuồng Phật năm 1936

- Cải lương kiếm hiệp kỳ tình năm 1935

- Cải lương đương đại nhuộm mầu lãng mạn năm 1933

- Cải lương chiếu cinema minh hoạ năm 1942.



Năm khuynh hướng diễn cải lương dưới đồng bằng, đại diện cho các khuynh hướng diễn cải lương lúc ấy, nổi bật là ba khuynh hướng cải lương tuồng Phật, cải lương lãng mạn, cải lương kiếm hiệp kỳ tình. Cải lương tuồng Phật do Tân đồng ban đề xướng, tác giả là Ba Sanh, diễn cải lương kiếm hiệp của Mộng Vân. Hai khuynh hướng cải lương này nổi bật vào giai đoạn cao trào cải lương từ 1930 đến 1938, tại các tỉnh Nam Bộ. Sau này, đến giai đoạn thoái trào, cải lương kiếm hiệp kỳ tình bị quyên lãng, nhưng cải lương tuồng Phật còn tồn tại như một điểm tựa tâm linh của công chúng. Cải lương phát triển sô bồ, lúc hợp, lúc tan, khi mạnh, khi yếu, dù là của các bầu chủ tư nhân tự do phát triển, nhưng xu hướng cải lương hoàn toàn phụ thuộc vào chính trị thời cuộc. Khi đất nước thuận lợi, kinh tế phát triển phong trào cải lương lên cao, khi kinh tế khủng hoảng các ban hát đổ vỡ từng mảng. Vào thời gian sau năm 1934, sau nạn khủng hoảng kinh tế thế giới, phong trào dân chủ lên cao, cải lương phát triển mạnh. Tại Sài Gòn có 41 đoàn cải lương, đây là con số chưa bao giờ lịch sử lặp lại số lượng các ban hát nhiều như thế.



Tại Nam Bộ từ năm 1930 đến 1945, có các ban hát tên tuổi tan rã lại tái sinh: Phước Cương, Văn Hý ban, Huỳnh Kỳ, Hồng Nhật, Tân Thinh, Hồng Châu, Trường Châu, Phụng Hảo, Kỳ Quang, Trường sanh, Nam phương, Thái bình, Tân xuân, Phương đông, Nhạn trắng, Tân hoà, Tiến hoá, Kim Khánh, Kim Chung, Thanh Vân, Tiếng chuông, Viết kịch Năm Châu, Đại Phước, Nghề mới, Thanh Tùng, Tô Huệ, Tỷ Phượng, Đông dương, Thanh long, Phước tường, Trần Đắc…



Đoàn Phước Cương tái diễn năm 1937, bầu chủ ông Ngọc Cương, diễn cải lương Pháp – Việt, soạn giả cải lương mới nổi tiếng Sáu Hải. Diễn viên Năm Cần Thơ, Ba Tuý, Ba Bến Tre, Ba Trà Vinh, Bảy Nam, Ba Giỏi, Bảy Cao, Năm Nghĩa, Sáu Vi, Hồng Châu… Đoàn Phước Cương lớn nhất Nam Bộ, ra Quy Nhơn, tan năm 1945.



Đoàn Trần Đắc, diễn viên: Phùng Há, Ba Liên, Tư Chơi, Tư út… hoạt động dưới các tỉnh lẻ, tan rã năm 1944.



Quốc gia kịch đoàn, đoàn cải lương, và kịch do chính phủ Pháp bảo trợ, lưu diễn tại Sài Gòn. Đoàn có tính chất văn nghệ quốc gia phục vụ nhiệm vụ bang giao Việt – Pháp.



Đoàn Nam Phương, do Bảy Nhiêu làm bầu, kiêm soạn giả của đoàn. Diễn viên Kim Lan, Kim Cúc, Thanh Loan… đây là ba nữ diễn viên được hâm mộ. Đoàn Nam Phương ra đời năm 1940, tan rã năm 1944. Đoàn diễn cải lương đương đại và kiếm hiệp.



Đoàn Tân Hoà, ra đời năm 1938, tan rã năm 1941, bầu chủ Năm Ngầu. ông chủ chương diễn cải lương kiếm hiệp kỳ tình, vở diễn là những vở cải lương dã sử, sử thi La Mã, A Rập… tạo những màn đấu võ ly kỳ, rùng rợn. Những pha bay người, phi dao, bắn tên cắm phập vào người… Đây là hướng diễn cải lương võ hiệp, sau này ở Hà Nội, Ngọc Dư trong đoàn Kim Phụng, ông đã diễn một số vở cải lương La Mã giống như ban Tân Hoà.



Đoàn Tỷ Phượng, ra đời năm 1944, công diễn được tám tháng thì kháng chiến bùng nổ, đoàn tan rã. Đoàn có các diễn viên Hai Tỷ, Ba Phượng, Ba Nữ, Ba Điền… diễn tuồng Mộng Vân. Tiếp tục hướng cải lương kiếm hiệp kỳ tình, cải lương tình cảm xã hội.



Đoàn Nhạn trắng khá nổi tiếng, thành lập năm 1938 đến năm 1945 tan rã. Bầu chủ Nguyễn Công Huân, nhiều diễn viên nổi tiếng, nên ban được công chúng hâm mộ, chuyên diễn cải lương đương đại, tuồng Tầu.



Đoàn Việt kịch Năm Châu, do nghệ sĩ Năm Châu làm bầu, có đội ngũ tác giả hùng mạnh, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Tư Trang, Năm Châu, Năm Nở… có ba người của đoàn, với đội ngũ diễn viên danh tiếng: Ba Vân, Bảy Nhiêu, Tám Danh, Kim Lan, Kim Cúc… Việt kịch Năm Châu là đoàn được dư luận cho là hay nhất Sài Gòn lúc ấy, thu hút nhiều giới trí thức, những công chức, quan chức đến xem. Đoàn diễn những vở cải lương đương đại, một số vở có tinh thần yêu nước, tiến bộ như Chiếc áo thiên nga của Bạch Sơn, Hậu chiến trường, Trần Hữu Trang, Nguyễn Huệ bình Thăng Long, Điêu Huyền, Tây Thi gái nước Việt của Huỳnh Mai Lưu, (nhóm tác giả bộ ba: Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước)… Còn nhiều ban cải lương Sài Gòn nổi tiếng, nhiều đào kép với các hướng diễn cải lương đặc sắc không thể kể hết. Mỗi ban hát ra đời, thêm một hướng phát triển cải lương. Những giai đoạn phát triển cải lương Nam Bộ đã hình thành phong cách cải lương nổi lên hai loại:



- Phong cách ca diễn cải lương đồng bằng Nam Bộ

- Phong cách ca diễn cải lương thành thị (cải lương Sài Gòn.)



Hai phong cách diễn cải lương đặc sắc này còn tồn tại đến nay, ngày càng tô đậm qua các Hội diễn sân khấu cải lương toàn quốc.



Phong cách ca diễn cải lương đồng bằng Nam Bộ mang tính dân dã, đồng quê chân chất giản dị. Các vở diễn nói về sinh hoạt thôn quê của người nông dân. Mỗi vở có lối ca diễn tự nhiên, tiết tấu chậm rãi, kể chuyện tâm tình, ít xung đột bạo liệt, cảnh trí tả thực trữ tình, mộc mạc. Nghệ thuật ca đằm thắm đầy chất dân ca sông nước Hậu Giang của đồng bằng Nam Bộ, ngọt mùi sống thực.



Phong cách cải lương thành thị, lộng lẫy, phù hoa, hào nhoáng cuốn hút. Nghệ sĩ ca diễn xưa nặng về khoe giọng ca trưng mốt thời trang. Giọng ca óng chuốt, kỹ thuật ca cao siêu, nghệ thuật diễn điêu luyện mang chất văn hoá đô thị. Trang trí sân khấu biến ảo sử dụng nhiều kỹ xảo, gây ảo giác thực, cảm giác mới lạ hấp dẫn.



Hai phong cách diễn cải lương thành thị và thôn dã phát triển mạnh vào giai đoạn hai, mỗi giai đoạn để lại ấn tượng giá trị nghệ thuật cải lương. Tại cái nôi cải lương Nam Bộ là Mỹ Tho và các tỉnh đồng bằng, nhưng khi lên Sài Gòn cải lương trở thành hình thức nghệ thuật phát triển nhiều hướng diễn. Tại Nam Bộ từ năm 1918 đến 1945, có bốn đoàn cải lương lớn ảnh hưởng đến cả nước: Đoàn cải lương Trần Đắc, Đoàn Phước Cương, Đoàn Việt Kịch Năm Châu, Đoàn Quốc gia kịch đoàn, là những đoàn tổ chức quy mô, nhiều tác giả nổi tiếng, diễn viên ngôi sao. Mỗi đoàn có phong cách nghệ thuật ca diễn đặc sắc, hấp dẫn công chúng.



2. Đội ngũ tác giả, tác phẩm.



a. Tác giả, tác phẩm



Sự xuất hiện nhiều ban hát cải lương, diễn các loại đề tài cuộc sống xã hội, đòi hỏi ra đời đội ngũ tác giả hùng mạnh, có đội ngũ tác giả, đội ngũ diễn viên đáp ứng mọi yêu cầu sân khấu cải lương. Đội ngũ tác giả đã đáp ứng vở diễn cho mỗi ban hát hoàn chỉnh phong cách, khuynh hướng nghệ thuật. Đội ngũ diễn viên giúp các ban hát thực hiện ý đồ nghệ thuật, mỗi ban hát có diễn viên ngôi sao để tồn tại lâu dài, không có sao sẽ không tồn tại. Thực tiễn nghệ thuật cần đội ngũ tác giả quyết định khuynh hướng, phong cách và thẩm mỹ công chúng, nhưng người thực hiện cuối cùng là diễn viên. Các ban hát, thiếu tác giả có thể lấy kịch bản ở nơi khác về diễn, nhưng thiếu diễn viên không thể doanh thu.



Đội ngũ tác giả, diễn viên luôn quan hệ với nhau, quyết định phương hướng nghệ thuật có tính xã hội, nhưng tác giả là người mở đường phát triển nghệ thuật. Nhờ đội ngũ tác giả, có nhiều vở diễn đáp ứng công chúng, từ năm 1930 đến năm 1945, xuất hiện gần 80 tác giả biên kịch cải lương. Những tác giả gạo cội của giai đoạn trước tiếp tục làm trụ cột ở giai đoạn sau. Nhiều tác giả ở giai đoạn trước như hoa mai hé nở, sang giai đoạn 30 – 45, trở thành những người viết chính, đề xuất các hướng cải lương: lãng mạn, hiện thực xã hội, tuồng Tây, tuồng Phật, cải lương kiếm hiệp kỳ tình… như Mộng Vân, Trần Hữu Trang, Năm Châu… Các tác giả sáng tác tự do, nhưng họ luôn bám sát hiện thực đời sống chính trị xã hội. Tác giả Năm Châu khi viết vở Ngọn cờ hiệp nữ năm 1927, tại Cần Thơ do đoàn Trần Đắc dựng bị gọi đến sở cảnh sát tỉnh, bọn mật thám bắt đưa kịch bản đọc duyệt, buộc tác giả đổi tên là Tấm lòng quê, đến ngày công diễn thì có lệnh cấm. Bắt đầu từ vở cải lương Ngọn cờ hiệp nữ, chế độ Pháp đề ra quyền kiểm duyệt vở diễn của các ban hát từ năm 1927, còn trước đó mọi người tự do sáng tác, dàn dựng và diễn chẳng ai bận tâm đến nội dung vở diễn, tư tưởng tác phẩm và nghệ thuật. Sân khấu cải lương tác động tới tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, là một diễn đàn có tính chính trị, thời đại, buộc nhà cầm quyền Pháp phải kiểm duyệt. Sân khấu có đội ngũ tác giả vững vàng; bản lĩnh nghề nghiệp, đạo đức, nhân cách dân tộc, viết nhiều kịch bản, nổi danh trong giới cải lương. Số tác giả sưu tầm được trên 50 người, đây là con số gồm nhiều thế hệ tác giả của hai giaiđoạn. Những tác giả đầu tiên viết cải lương, như Trương Duy Toản, Giáo Quyển, Trần Phong Sắc, Trần Tấn Chức, Lâm Hoài nghĩa, Nguyễn Quốc Biểu, Nguyễn Công Mạnh, Đào Châu, Đặng Công Danh,… Lớp sau: Tư Chơi, Năm Châu, Tư Trang (Trần Hữu Trang), Nguyễn An Khương, Ba Phát, Bảy Nhiêu, Thanh Sơn, Ba Sanh, Lương Võ Đố, Ba Mảng, Ba Miêng, Ba Nghĩa, Sáu Mẹo, Năm Nở, Duy Lân, Văn Cảnh, Ba Ngọc, Sáu Đỏ, Sáu Hải, Hai Chấn, Mộng Vân, Mười Bửu, Song Hỷ, Nguyễn Trọng Quyền, Năm Lâm, Sáu Hồng, Ngọc ấn, Tử Long, Phạm Công Bình, Nguyễn Đăng Phong, Sáu Cương, Phú Đức, Trúc Viện, Ba Đô, Ngô Vĩnh Khang, Viễn Châu, Quang Sô, Phạm Thị Phương…



Nhiều tác giả có vở cải lương được xếp vào loại kinh điển, tiêu biểu cho các khuynh hướng cải lương, là sự lớn mạnh về đội ngũ tác giả và chất lượng kịch bản. Những tác giả có tính chuyên nghiệp hoá, tạo sự phong phú cho sân khấu cải lương về các mặt nghệ thuật.



Tác giả Mộng Vân khởi xướng cải lương kiếm hiệp kỳ tình có các vở: Long hình quái khách (vở khai sinh trường phái mới, có đánh duy đô, phi dao găm nhào qua vòng lửa), Chiếc lá vàng, Bích Liên vương nữ, Hoàng Hà đẫm máu, Đả Nguyệt Nương, Đường xích đạo, Quan công trá hàng, Bồng lai hiệp khách…



Nhiều tác giả viết cải lương theo hướng hiện thực xã hội: Trần Phong Sắc vở: Tham phú phụ bần, Cô ba lưu lạc… Đặng Công Danh: Tứ đổ tường, Duyên chị tình em… Tư Chơi: Đời cô Lý, Ai bạn chung tình, Bạc trắng lòng đen, Chàng và nàng, Lỡ tay đã chót nhúng chàm, Khúc oan vô lượng, Ba chị em, Cô gái mới, Tôi xin chừa… Trần Hữu Trang: Chị chồng tôi, Tô ánh Nguyệt, Đời cô Lựu, Sấm sét, Đầu xanh vô tội… Năm Nở: Những kẻ vứt đi, Nỗi lòng chị Bếp, Hội yêu chồng, Thử làm bé, Ông huyện hâm hâm, Anh chị ăn mày… Ba Ngọc: Ăn mày đã muộn, Mảnh gương đời, Một tấm lòng son… Phạm Công Bình: Tối độc phu nhân tâm…



Những vở cải lương lãng mạn, tác giả: Trần Hữu Trang: Lá ngọc cành vàng, Lan và Điệp… Ba Đô: Biển tình chìm nổi, Trường tình bí mật… Ngô Vĩnh Khang: Tơ vương đền thác… Phạm Thị Phượng: Quả báo kỳ duyên… Số vở cải lương lãng mạn không nhiều, nhưng khi trào lưu văn học, ca nhạc lãng mạn thâm nhập vào cải lương, ngoài những vở có tính mở đường cho hướng cải lương lãng mạn sau năm 1930 của thế kỷ XX, có giai đoạn cải lương chìm đắm trong đám mây mù của chủ nghĩa lãng mạn thì vở cải lương nào cũng trở thành cải lương lãng mạn. Đó là lối ca diễn lê thê, vàng vọt, sướt mướt thê lương… Cải lương lãng mạn ra đời sau những vụ đàn áp đẫm máu của Pháp vào phong trào yêu nươc cách mạng, con người mất niềm tin, không lối thoát. Từ đó, lối ca hát uỷ mị xuất hiện trên hầu hết các vở cải lương kéo dài sau năm 1930 đến 1945, và sau nữa. Sân khấu cải lương đan xen nhiều trường phái khác nhau, nhằm đáp ứng công chúng.



Cải lương tuồng Phật là hướng mới, tiếp sau cải lương lãng mạn, bởi nó tạo chỗ dựa cho niềm tin bế tắc không lối thoát của con người sau những chấn động xã hội, chiến tranh, nô lệ, mất nước, nạn lụt, nạn đói liên miên đè lên nỗi sống khổ của nhân dân. Sân khấu cải lương tuồng Phật tìm hướng giải thoát có phần tiêu cực, nhưng bước đầu khủng hoảng niềm tin, thì đây là lối thoát. Sau này xã hội vận động sân khấu tìm đi hướng mới. Hướng cải lương tuồng Phật ban đầu khá hấp dẫn công chúng, nhiều ban hát chạy theo diễn có đánh đồ thật, tác giả đầu tiên viết cải lương tuồng Phật: Trần Phong Sắc các vở: Tam tạng thỉnh kinh, Mục Liên Thanh đề, Phật nhập miết bàn, Tam Tạng xuất thế… Nguyễn Công Mạnh: Quan âm Thị Kính; Ba Mảng: Tạo thiên lập địa, Phật nhập miết bàn, Lương Võ Đố: Bà Chúa thượng ngàn, Thích ca đắc đạo…



Những khuynh hướng, cải lương hiện thực phê phán, lãng mạn, cải lương diễn tuồng Phật… tạo chỗ dựa tâm linh con người, khơi dậy niềm tin cuộc sống. Một số tác giả xuất hiện những vở cải lương yêu nước, nêu cao tinh thần cách mạng và tự hào dân tộc. Đây là niềm tin, hướng công chúng đến với sự tiến bộ xã hội, tin vào truyền thống yêu nước cách mạng.



Tác giả Năm Châu vở: Ngọn cờ hiệp nữ, Đêm không ngày, Ba Phát: Nặng gánh giang sơn, Giữ lời non nước… Đào Châu: Triệu Trinh Nương, Trưng Trắc Trưng Nhị… Nguyễn Công Mạnh: Lê Lợi khởi nghĩa… Nguyễn Thành Châu: Đời hàm oan, Phạm Thị Phương: Triệu ẩu. Đặng Công Danh: Tiểu anh hùng võ Kiệt, Nguyễn Trọng Quyền: Trần Hưng Đạo bình nguyên, Võ Tánh thủ tiết…



Những vở cải lương hiện thực xã hội như Tô ánh Nguyệt, Đời cô Lý, Đời cô Lịu, Cô ba lưu lạc, Men rượu hương tình, Ngọn cờ hiệp nữ… Những vở đề tài dã sử, lịch sử… hợp thành đề tài cải lương yêu nước nêu cao tinh thần dân tộc, tinh thần khởi nghĩa, hướng tới cuộc Cách mạng Tháng tám. Đây là thành tựa của cải lương Nam Bộ, khởi xướng từ những tác giả giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc cùng các bầu chủ, diễn viên dũng cảm đưa sân khấu cải lương đến với cách mạng.



Đội ngũ biên kịch cải lương Nam Bộ, qua hai giai đoạn phát triển sân khấu, các tác giả tự học, tự kèm cặp nghề trở thành tác giả. Tuy nhiên có nhiều tác giả nho học, Tây học, là những nhà trí thức Nam Bộ, hầu hết lớp tác giả này không học qua trường lớp biên kịch, nhưng họ lại là những tác giả lớn. Đây là đặc điểm tác giả biên kịch cải lương, tính chất tài tử đến nay còn những tác giả tự yêu thích cải lương viết kịch bản, nhiều đoàn diễn mặc nhiên thành tác giả.



b. Nghệ thuật diễn và diễn viên



Cao trào cải lương ra đời nhiều khuynh hướng, khó kể hết nghệ thuật diễn của đội ngũ diễn viên, với số đông nhiều thế hệ đan xem nhau, nghệ thuật diễn phức tạp qua các hướng. Mỗi hướng cải lương xuất hiện những diễn viên ngôi sao, biểu hiện thành công ca diễn, dù chưa có lý luận nghệ thuật diễn cải lương, các diễn viên tự hoàn thiện mình, sáng tạo từng vai diễn. Các diễn viên cải lương tự tìm ra nghệ thuật diễn từng nhân vật, từng khuynh hướng, ngày càng hoàn chỉnh hệ thống ngôn ngữ hành động ca diễn cải lương.



Giai đoạn cao trào cải lương 1930 – 1945, là đỉnh điểm mọi hướng phát triển cải lương, phong phú, hình thức nghệ thuật diễn. Năm 1935, Mộng Vân thông qua khuynh hướng cải lương kiếm hiệp kỳ tình bộc lộ một số quan niệm về cải lương, nhưng đến Năm Châu năm 1936, những tuyên ngôn của ông làm sáng tỏ quan điểm lý luận nghệ thuật biểu diễn. Năm Châu quan niệm biểu diễn cải lương “thật phải đẹp, đẹp phải thật”. Hai từ rất đơn giản đúc gọn lại thành chân lý tổng hợp của nghệ thuật cải lương, đây là một phát minh lý luận vĩ đại. Chỉ có hai từ ghép thành hai vế như hai câu đối, rút ra bản chất biểu đạt nghệ thuật cải lương.



Chữ thật, theo ông diễn phải tự nhiên như người thực việc thực, nghĩa là nhân vật có như thế nào nói đúng như thế, ca như thế và hành động diễn ra như sự thật. Hình thức diễn này đến nay các diễn viên cải lương Nam vẫn diễn nguyên như thế, có phần gần gũi cuộc sống như thật. Cải lương Bắc lại diễn tự sự giãn cách có phần xa rời chữ thực, xem cải lương Bắc hơi “thánh thiện”, hoặc kịch nói hoá. Quan niệm của Năm Châu tuyên bố: diễn cải lương càng giống thực càng hay, diễn làm sao dẫn công chúng nhìn thấy đúng là sự thật. Đó là nói về diễn cái thực, nhưng cái thực ông quan niệm có phần trìu tượng là “thực phải đẹp”, thật mà làm đẹp lên đôi khi là khác cái thật, nhưng thật mà không đẹp thì đâu phải là nghệ thuật. Đây là cái nút của nghệ thuật. Nghệ thuật không như thực mà thực. Quan niệm về cái đẹp, đẹp phải thật, đẹp mà không thực thì chẳng có giá trị nữa, bởi mọi cái đẹp đều bắt nguồn từ cuộc sống, cái đẹp nào không bắt người từ cuộc sống không thể tồn tại, đó là “cái đẹp” không nhận thức được. Quan niệm mỹ học của Năm Châu về cái đẹp sân khấu, nghệ thuật diễn cải lương là đẹp phải thật, thật phải đẹp, không đạt những tiêu chí này cải lương không tồn tại. Đây là luận điểm mỹ học sân khấu cải lương từ trang trí mỹ thuật, phục trang đến nghệ thuật diễn tạo hình tượng, vũ đạo, ca nhạc… cho nhân vật đạt tới cái đẹp và thật. Là sân khấu tả thực của cải lương, nếu làm sai quan điểm mỹ học này cải lương không còn bản sắc sân khấu kịch hát Nam Bộ.



Năm Châu diễn giải về nghệ thuật biểu diễn cho các diễn viên, mỗi diễn viên muốn đạt tới “cái đẹp, đẹp thật tự nhiên ấy, diễn viên phải: thành thật, sống với vai tuồng của mình để đạt bản sắc của vai tuồng”[1]. Qua lời dẫn của Năm Châu, ông đã chỉ đạo nghệ thuật diễn cải lương cho diễn viên diễn chân thật, giản dị, mọi hình thức diễn ngoại hình khoa trương, diêm dúa, chơi trội, hơn người là phi nghệ thuật. Đây là căn bệnh các diễn viên xưa thường mắc phải, ông đã sớm phát hiện ra những sai lạc của hoạt động diễn cải lương để nêu lên quan điểm chính thống của nghệ thuật diễn cải lương độc đáo, mang tính bản chất sân khấu cải lương khác biệt với các hình thức sân khấu khác. Đó là cái đẹp đoan trang, duyên dáng, cách điệu nhẹ nhàng của sân khấu cải lương.



Những mong muốn ước nguyện của Năm Châu, sớm chỉ ra nhận thức bản chất nghệ thuật cải lương, còn thực tiễn sân khấu cải lương thì sao? Các ban hát đua nhau chơi trội, diễn cải lương đánh đồ thật, như thực, kiếm kích, đao thương không làm bằng gỗ dẻo, mà làm bằng sắt sáng loáng đánh vào toé lửa, chém rơi đầu, tay sách đầu lên tỏa hào quang sáng loé cả sân khấu… Các diễn viên diễn đủ các loại vai, công tử, làng chơi, ăn mày, quan chức, ban thì phục trang như thật, ban lại tô vẽ cho nhân vật thêm hoa lệ… Nghệ thuật diễn tung ra các loại xảo thuật cải lương, không còn là thực như thực mà sử dụng kỹ xảo, xảo thuật để diễn tả hành động nhân vật, diễn ngoại hình xô bồ… Những người giữ khuôn mẫu nghệ thuật diễn theo lối cổ điển bị coi là cổ hủ. Nghệ thuật diễn xuất phát từ các khuynh hướng cải lương hết sức phong phú, một số diễn viên vào các loại vai: cải lương đương đại nhân vật công nhân, nông dân, kẻ ăn mày, người là bà đầm, ông tây, kẻ là vua quan, chú tiểu, ông phật, ông thánh, cô tiên, công chúa, hoàng hậu, ác ôn, trộm cướp, thằng nghiện, cờ gian, bạc bịp… Vậy họ nhập vai thế nào, một diễn viên thể hiện hàng chục mẫu người ở các tầng lớp xã hội khác nhau, qua các mẫu nhân vật ấy đã thấy sực phong phú nghệ thuật diễn cải lương.



Quy tụ lại nghệ thuật diễn cơ bản ngôn ngữ hành động của các nghệ sĩ nổi tiếng ngày ấy:



1. Diễn kinh điển theo hát bội và carabộ

2. Diễn tự nhiên như kịch nói

3. Diễn cương xuất thần vào nhân vật





Nguồn gốc hình thành sân khấu cải lương mở đầu từ trào lưu cải cách hát bội thành hát bộ. Hát bộ là khởi hình ngôn ngữ diễn cải lương, lấy điểm tựa ngôn ngữ hành động diễn tuồng chuyển thành diễn cải lương bằng cách ra bộ, nhẹ hoá những động tác khuôn mẫu tuồng thành ngôn ngữ ra bộ. Khi diễn những vở cải lương tuồng Tầu, cải lương lịch sử, dã sử, dân gian, các nghệ sĩ, diễn viên thường diễn theo ngôn ngữ hành động tuồng nhẹ hoá, hoặc diễn theo ngôn ngữ carabộ. Carabộ là ngôn ngữ diễn cải lương, hình thức diễn ngôn ngữ ra bộ vận dụng vào các vở cải lương cổ, hoặc cải lương đương đại. Đây là lối diễn phổ biến của diễn viên cải lương khi nói, hát lấy điệu bộ minh hoạ cho lời văn, hoặc đi điệu bộ theo lời ca. Hình thức diễn theo hát bội và carabộ, phổ biến trong ngôn ngữ hành động diễn cải lương ở các giai đoạn phát triển nghệ thuật diễn. Đó là đặc điểm ngôn ngữ hành động biểu diễn có tính kinh điển, mở đầu nghệ thuật diễn cải lương tuồng cổ.



Bước phát triển tiếp theo, các nghệ sĩ, diễn viên diễn tự nhiên như diễn những lớp thoại kịch nói, ngôn ngữ thoại và hành động diễn cải lương chỉ khác kịch nói ở chỗ ngôn ngữ kịch nói là hành động, còn ngôn ngữ cải lương là ra bộ. Ra bộ là ngôn ngữ hành động diễn cải lương, dù có xung đột hành dộng, thì cải lương nghiêng về xung đột tâm lý, lời thoại mềm hơn, đây là ranh giới giữa hành động diễn cải lương và hành động kịch nói. Về điểm này giống như các nghệ sĩ cải lương diễn theo ngôn ngữ hành động của tuồng nhưng nhẹ hơn tuồng, đó là ngôn ngữ hành động cải lương. ngôn ngữ hành động diễn cải lương tạo ra đặc trưng nghệ thuật cải lương, dù có những lớp diễn cải lương tuồng cổ, hay lớp thoại kịch nói thì cải lương là cải lương. Đó là nghệ thuật diễn ngôn ngữ hành động tự nhiên theo đề xướng lý luận của Năm Châu. Nhiều diễn viên, nhiều ban hát, học tập và diễn cho ra ngôn ngữ hành động cải lương: như kịch nói nhưng không phải sân khấu ngôn ngữ hành động của kịch nói.



Ngày xưa, nổi bật trên sân khấu cải lương Nam – Bắc –Trung, phần lớn các nghệ sĩ tài danh diễn tuồng cương. Họ cương những màn đối thoại xem như là viết sẵn, nhưng thực ra là đối đáp cương trực tiếp trước khán giả. Trong Nam có: Ba Du, Tám Danh, Năm Châu, Tư Chơi, Phùng Há, Hai Cúc… Ngoài Bắc có: Phan Ninh, Bellanhư Nhung, Hồng Hiệp, Sĩ Tiến… Trong Nam nổi danh Ba Du cương hài, cương nói móc châm biến xã hội, làm bạn diễn lúng túng, nhưng gặp những đối thủ ngang tài, ngang sức làm khán giả bái phục. Diễn cương xuất thần vào nhân vật, là sự nhập vai, người diễn viên đứng trên nhân vật để chỉ đường nhân vật, đó là thoát vai. Những diên viên tài ứng biến thông minh mới có bản lĩnh thoát vai theo lối diễn cương nhảy ra khỏi nhân vật, khỏi lối thoại kịch bản là lời nhân vật, lời của kịch bản – kịch trong kịch – nhân vật của nhân vật. Đó là diễn cương xuất thân vào nhân vật, Nữ có hàng loạt nghệ sĩ Năm Phỉ, Kim Cúc, Năm Cần Thơ, Hai Cúc… Nhưng nổi bật hơn cả là nghệ sĩ Năm Phỉ, bà diễn nhiều loại tuồng: cải lương tuồng Tàu, cải lương tuồng hương sa, tuồng xã hội, cải lương tình cảm, cải lương sắc mầu, kiếm hiệp, võ hiệp… Đây là những thuật ngữ của giới cải lương đặt tên cho các hình thức diễn cải lương, thực ra không nhiều đến thế, cải lương sắc mầu là loại cải lương lãng mạn, hay hương xa có khác nhau đâu, cải lương tình cảm, cải lương nào không tình cảm…? Nhưng hàng loạt cách đặt tên các hình thức diễn cải lương ấy, không phải là vô lý, vì mức độ mỗi hình thức diễn có khác nhau đôi chút. Cải lương tình cảm là những câu chuyện thương tâm thiên hướng diễn tình cảm qua những cuộc tình đẫm lệ, éo le, người diễn viên chìm đắm trong mộng mị, nước mắt khổ đau, còn cải lương mầu sắc, mỗi thứ một tí, tình cảm một chút, võ hiệp một chút, tường trình bí mật một chút… Những nhân vật Tây, Ta, Tầu… nghệ sĩ Năm Phỉ xuất thần, nhập vai diễn loại nào ra loại ấy, đó là tài năng đặc biệt của lớp nghệ sĩ nổi danh cải lương Nam Bộ. Nghệ thuật diễn cải lương đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật ca, ngôn ngữ hành động, mỗi nghệ sĩ vào vai đem lại hình tượng nhân vật tạc vào ký ức khán giả, khiến họ chỉ thích xem những đào kép chính. Dù xem nhiều lần nghe câu Vọng cổ xuống hò, khán giả cứ bám theo ban hát, cô đào, anh kép mà khán giả thành kẻ liu lạc giang hồ. Đó là sự chinh phục đến mê hoặc công chúng, các thế hệ nghệ sĩ diễn viên cải lương của hàng trăm ban hát cải lương Nam Bộ, có đội ngũ diễn viên nổi tiếng. Các đào kép: Năm Châu, Tư Chơi, Tư út, Tư Anh, Bảy Nhiêu, Mộng Vân, Ba Du, Tám Danh, Tấn Thành, Tư Xe, Ba Giáo, Hoàng An, Tám Củi, Tám Dô, út Trà Ôn, Mười Bửu, Ba Đắc, Ba Đĩnh, Ba Trà Vinh, Ba Bến Tre, Năm Cần Thơ, Bảy Nam, Sáu Lực, Năm Bé, Hai Hy, Năm Nghĩa, Bảy Cao, Thanh Tao, Ba Giáo, Sáu Vị, Tư Phức, Hồng Châu, Ba Tuý, năm Phỉ, Phùng Há, Kim Cúc, Kim Thoa, ái Hữu, Kim Lý, Ngọc Sương, Ba Khuê, Tám Quắn, Văn Lắm, Hề Sách, Năm Diệp, Ba Bé, Ngọc Toàn, Hoàng nghi, Văn Trọng, Ba Giỏ, Ba Sanh, Kim Hoàng, Hề Lập, Kim Chưởng, Hoa Tươi, Tư Thới, Ba Ngư, Ba Nhạn, Nam Ninh, Như Long, Bảy Lục, Ba Tọt, Kim Anh, Tô Huệ, Ba Đua, Cao Long Ngà, Chín Phót, Sáu Chầu, Mười Bửu, Tư Lực, Năm Diệp, Bầu Liêm, Ba Điều, Hai Xáng, Sáu Tý, Tư út, Ba So, Tám Điền, Chín Quý, Ba Cương, Mười Bửu, Sáu ngọc, Tám Mẹo, Chín Móm, Ba Giỏi, Hai Nữ, Ba Duy, Năm Thắng, Ba Châu, Tư Lenơ, Ba Đổng, Năm Kiệt, Hai Sự, Tư Long, Năm Long, Ba Nhàn, Ba Liên, Ba Thâu, Năm Thiềng, Sáu Huề, Tư Sạng, Tư út, Tư Anle, Sáu Chương, Năm Định, Bảy Nhỏ, Bảy Thành, Sáu Lê, Hai Lợi, Hai Trì, Bảy Lựu, Chín Lê, Tư Huề, Hai Ngời, Hai Bông, Sáu Chánh, Năm Tỵ (hề), Tư Đẩu, Tư Thạch, Tư Đề, Chín Thêu, Hai Tỷ, Ba Mật, Tư Thới, Văn Chuông, Năm Hỷ, Sáu Ty, Sáu Trâm, Ba Vinh, Hai Hiền, Lẫm Sanh, Dương Hoà, Kiều Loan, Kiều Mỵ, Ngọc Xoa, Đại Hồng, Song Hỷ, Tần Văn, Hai Giỏi, Hề Chín ích, Năm Phồi, Hai Thành, Ba Ngư, Sáu Đảnh, Hai Thà, Sáu Chức, Hai Đàn, Sáu Chánh, Tư Kiều, Bảy Cừ, Tám Sâm, Ba Niệm, Ba Lùng, Bảy Kiên, Năm Điệp, Châu Xương, Sáu Lực, Tư An, Năm Nở (Kiêm soạn giả), Tư Chơi, Ba Vân, Hai Tùng…



Trên đây là những diễn viên nổi tiếng trong giới cải lương Nam Bộ, họ là trụ cột của những ban hát cải lương, tổng số là 160 người, con số này còn bỏ sót không ít nghệ sĩ có tiếng chưa sưu tầm đầy đủ. Với đội ngũ diễn viên mạnh từ thế hệ carabộ kéo dài đến năm 1945, cải lương Nam Bộ hoàn chỉnh nghệ thuật diễn các khuynh hướng cải lương, hoàn chỉnh các hình mẫu nhân vật kép văn, võ, đào, các vai hài, kép độc, kép xanh, kép đổ, kép mặt trắng… Sau năm 1938 đến năm 1945, cải lương Nam thoái trào tan rã cả trăm ban hát, chỉ còn một số ban ở lại Sài Gòn và các tỉnh. Ban đi diễn về các vùng quê chạy loạn, ban diễn tài tử thu đĩa, ca nhạc thính phòng, chờ thời.




Lịch sử cải lương 4
Tuấn Giang

3. Âm nhạc, mỹ thuật



A. Âm nhạc



Âm nhạc cải lương giai đoạn hai, lớn mạnh toàn diện, phát triển các khuynh hướng ca nhạc theo từng ban hát diễn các loại cải lương. Cải lương tuồng Tầu, tuồng Tây, tuồng Việt, tuồng Phật, cải lương lãng mạn, ca nhạc phù hoạ, tô đậm mầu sắc các hướng cải lương.



Ca nhạc hoàn chỉnh các mặt, nâng cao kỹ thuật ca, hoà tấu nhạc, xuất hiện những ca sĩ ca Vọng cổ nhịp 16 nổi tiếng: Tư Chơi, Năm Châu, Phùng Há, năm Phỉ, Kim Cúc, Kim Thoa, út Trà ôn, Ba Điều, Bảy Nhiêu… Những nhạc công nổi tiếng trong từng ban hát, đàn ca chinh phục công chúng cải lương qua bài Vọng cổ. Ca nhạc có những nhạc công tổng kết lý luận bài bản cải lương nêu ra nguyên tắc hoà tấu dàn nhạc, xây dựng bài bản trong từng vở diễn. Nhiều diễn viên, soạn giả như Mộng Vân, Tư Chơi, sáng tác những ca khúc vào vở diễn cải lương tuồng Việt, tuồng Tầu, tuồng Tây… Một số bài của Mộng Vân đến nay có nghệ sĩ còn hát như Long Nguyệt, Giang Tô, Tô Vũ Mục dương…. Phương pháp sáng tác của các nhạc công, diễn viên ngày ấy bằng thủ pháp mô phỏng âm hưởng bài bản cũ, phát triển bài bản mới. Nghe những sáng tác mới phảng phất một làn điệu nào đó, hoặc mang âm hưởng nhạc Quảng, nhạc Tây. Thủ pháp mô phỏng này, gần với bài bản, dễ hoà nhập vào vốn ca nhạc cải lương. Sáng tác những ca khúc mới vào vở diễn bắt đầu từ năm 1927, vở đầu tiên Giọt máu chung tình, tác giả soạn nhạc Nguyễn Chí Lạc, có bài Chim én và chim sẻ, Gió thổi nghiêng lều… Nhưng từ năm 1930, các vở diễn mới đồng loạt xuất hiện ca khúc mới vào cải lương. Kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc năm 1935, có lớp hoà tấu khí nhạc bằng những bản nhạc Pháp, chuyển cảnh, nhảy van, kết thúc chào khán giả.



Ngay giai đoạn trước, các ban hát cải lương có hình thức giới thiệu diễn viên, chào khán giả bằng màn hát mở màn, từ vở Kim Vân Kiều. Nhưng chưa rõ hẳn là một màn hát mở màn chào khán giả, từ năm 1930 đến 1940, nhiều ban hát có hẳn một bài hát mở màn chào khán giả quảng cáo thương hiệu của ban. Tư Chơi, còn viết một màn Operette mở mà, hoặc kết thúc vở cải lương, làm công chúng chỉ thích đến xem chờ đợi bài ca những sáng tác nhạc cảnh cải lương của ông. Từ giai đoạn hai ca nhạc cải lương hoàn chỉnh các hình thức ca nhạc, hoà tấu dàn nhạc. Âm nhạc sân khấu có nhạc mở màn, chuyển cảnh, cao trào, kết thúc. Những vở diễn xuất hiện ca khúc tình cảm, diễn tả tâm trạng nhân vật, tình huống, hoàn cảnh sân khấu, tính kịch. Âm nhạc trong mỗi vở diễn cấu trúc thành những đắc tính riêng, diễn tả đặc điểm thể loại, đặc tính sân khấu, tính cách nhân vật. Đây là sự hoàn chỉnh ca nhạc sân khấu cải lương như một đề xuất lý luận âm nhạc về hoà tấu dàn nhạc sân khấu cải lương có những nguyên tắc, quy phạm riêng. Ví dụ, người đàn, người ca hết sức tự do tung hứng, nhưng sau tiếng song loan, sau cái đảo phách tất cả cùng vào để kết thúc câu nhạc hoặc đoạn nhạc… Tuy không ai tổng kết, nêu ra thành văn bản lý luận, nhưng các dàn nhạc hoà tấu theo luật chơi như thế, các ban hát có nhạc mở màn, cao trào… biểu hiện tính khí nhạc như nhau. Đó là sự thống nhất, hoàn chỉnh có tính lý luận âm nhạc cho các vở cải lương.



Nghệ thuật ca, phát triển kỹ thuật ca Vọng cổ nhịp 16, đàn ghi ta lõm với sự ghép nối ca khúc mới thành kỹ thuật ca tân cổ dao duyên phổ biến, là phát hiện mới hấp dẫn công chúng. Hình thức hát tân cổ giao duyên ngay từ năm 1925, đã có, nhưng phải tới giai đoạn 30 – 45, mới trở thành kỹ thuật ca Vọng cổ với ca khúc mới trong từng vở diễn, có những lớp hát đôi tân cổ, hoặc mở màn… làm công chúng náo nức đón xem. Là Thành công đích thực của ca tân cổ, đem đến công chúng nhịp điệu, âm thanh mới, làm mới lạ ca cải lương. Vọng cổ trở thành ông hoàng ca nhạc cải lương, diễn viên phải ca câu Vọng cổ để được tán thưởng. Từ một bản nhạc tâm trạng buồn chỉ có một tâm trạng đó thôi, các diễn viên đã phát triển bản Vọng cổ thành bản nhạc đa tính cách, đa tâm trạng, đa tình huống sân khấu, biểu hiện các loại sắc thái tình cảm buồn, vui, hờn, giận, giỗi hờn, căm phẫn, uất ức, mòn mỏi chờ mong, chán trường thất vọng, mộng mị, sướt mướt, chết chóc bi ai, hùng tráng, anh hùng ca trữ tình… Đây là sự hoàn hảo bài Vọng cổ, biến thành bản nhạc chức năng diễn tả, biểu hiện tình cảm, trong lịch sử âm nhạc không có bản nhạc nào mang tính đa phong cách như thế. Đó là sự phát triển cao nhất đặc tính bài Vọng cổ của ca nhạc cải lương, nhờ sự đa phong cách ấy trở thành gu thẩm âm, thẩm mỹ ca nhạc cải lương nghe câu Vọng cổ xuống hò.



Ca nhạc cải lương phát triển toàn diện, đặt ra những nguyên tắc hoà tấu dàn nhạc chung cho các dàn nhạc cải lương, nguyên tắc sử dụng các bài bản cải lương theo 10 nguyên tắc: Nhất lý, nhì ngâm, tam Nam, tứ Oán… Những nguyên tắc viết khí nhạc phân chia thành các loại: nhạc mở màn, chuyển cảnh, diễn tả tình huống, cao trào, kết thúc vở diễn. Ca Vọng cổ phát triển đa phong cách, ca tân cổ… là sự hoàn hảo toàn bộ kỹ thuật âm nhạc cải lương. Sự hoàn hảo ấy, ngày nay dàn nhạc cải lương phải tuân theo, không thể khác được, sự đổi mới ca nhạc hôm nay dựa trên những nguyên tắc xưa để phát triển mà thôi. Ca nhạc cải lương giai đoạn 30 – 45, tự hoàn thiện các mặt kỹ thuật dàn nhạc, kỹ thuật ca hát, có hướng lý luận chung tạo thành nghệ thuật ca và hoà tấu dàn nhạc cải lương mang lại hiệu quả vở diễn, chuyên nghiệp hoá trong các khuynh hướng cải lương.



B. Mỹ thuật phục trang



Mỹ thuật sân khấu cải lương ra đời từ carabộ, kết hợp phông cảnh, đồ vật, gần với trang trí nhạc kịch Opera, trang trí tả thực. Mỹ thuật phục trang sân khấu là mối quan hệ tổng hợp cấu trúc sân khấu cả hình ảnh, đồ vật, kiến trúc, điêu khắc, hoá trang, phục trang từ năm 1930 đã hoàn hảo và phát triển vào các khuynh hướng cải lương. Mỗi khuynh hướng một phương pháp trang trí sân khấu, một hình thức phục trang cấu trúc mỹ thuật toàn vở. Tuy vậy, mỹ thuật cải lương đã kết hợp nhiều hình thức thiết kế sân khấu vào từng vở diễn.



Trước kia từ carabộ đến vở Kim Vân Kiều chỉ là manh nha khuynh huớng cải lương trang trí tả thực, qua giai đoạn một có tả thực ảo giác, tả thực như thật. Sang giai đoạn hai có gì mới?, xét cho cùng các hình thức trang trí chưa vượt khỏi hai khuynh hướng ấy, nhưng đã xuất hiện nhiều cái mới. Mới trong trang trí cấu trúc sân khấu, hoá trang, phục trang… Sân khấu cải lương xưa không có hoá trang dưới dạng vẽ lông mày, vẽ mặt, nhưng từ năm 1926 trong vở diễn các diễn viên vẽ lông mày, vẽ mặt đến năm 1930 trở thành quy phạm sân khấu. Ban hát, đoàn hát to nhỏ, tất cả các nhân vật cổ hay đương đại phải vẽ lông mày, những loại kép vẽ mặt. Đây là cái mới trong hoá trang sân khấu cải lương. Vẽ hình dáng diện mạo bên ngoài, phản ánh tính cách bên trong nhân vật. Phục trang, các khuynh hướng cải lương mặc gần giống con người ngoài xã hội, đôi khi do các mốt thời thượng, hoặc kỳ hoá nhân vật, phục trang khác đi một chút. Nhiều ban hát diễn cải lương tuồng Tầu, nhân vật mặc như giặc cờ đen, chân quấn sà cạp đen trắng, trở thành mốt tướng, sĩ phục trang gần giống nhau. Những đoàn diễn cải lương tuồng Tây phục trang giống Tây… Phục trang các nhân vật, nhiều ban hát tỏ ra tự do, chưa theo đúng hiện thực lịch sử, chủ yếu tạo cái lạ, hoặc chạy theo mốt thời trang. Đây như một đặc tính cải lương, tới nay nhiều vở diễn còn phục trang theo những sở thích riêng, họ cho rằng tạo được ấn tượng hấp dẫn công chúng. Nhìn nhận sân khấu cải lương cần rộng lượng hơn, do đặc điểm là cải lương, nó không hiện thực hẳn, hoặc có khi là hiện thực như thật… Sân khấu cải lương không theo một khuôn mẫu nào, tính chân thực thể hiện ở tổng thể vở diễn, còn các chi tiết luôn là sự khác lạ vì thị hiếu công chúng.



Trang trí sân khấu cải lương khá thống nhất khuynh hướng lý luận theo đề xướng của Năm Châu, không phải thuyết lý của ông buộc mọi người chấp nhận mà ông nói đúng bản chất nghệ thuật cải lương. Những luận điểm ông nêu ra là thực tiễn sân khấu cải lương, theo quan niệm “thật phải đẹp, đẹp phải thật”. Nghệ thuật biểu diễn và mỹ thuật phục trang liên hệ với nhau, thể hiện đặc điểm nghệ thuật cải lương. Thật trong cái đẹp, đẹp trước sự thật. Mỹ thuật trang trí tả thực chiếm hầu hết các vở cải lương,một số khunh hướng khác tả thực và như thật, đó là đạo cụ như thật, biểu diễn có những màn lớp như thật. Mỹ thuật cải lương có các khuynh hướng:



- Trang trí tả thực, năm 1918

- Trang trí ước lệ 1930

- Trang trí tả thực và như thật, năm 1936



Trang trí tả thực ở vẽ phong cảnh, tả thực chi tiết, tạo sân khấu ảo giác,

cảm giác thật. Trang trí ước lệ, về phong cảnh khái quát, đặc biệt các nhân vật vẽ my, vẽ mặt, trang phục… Trang trí tả thực như thật, kết hợp trang trí ngoại cảnh như thật, với cảnh thật như thật của các ban hát diễn cải lương có đánh đồ thật. Mỹ thuật phục trang, hoá trang từ năm 1935, hoàn hảo sân khấu dựa trên cấu trúc tổng thể biểu hiện cái thực, cái thật trong các khuynh hướng cải lương.



II. Sự ra đời và phát triển cải lương Bắc



1. Sự ra đời



Cải lương Bắc ra đời từ sự ảnh hưởng trào lưu cải lương Nam phát triển mạnh, tác động đến công chúng cái lạ, cái hay bắt chước làm theo dần dần ra đời cải lương Bắc. sự ảnh hưởng tiếp xúc đầu tiên qua đĩa hát cải lương Nam ra Bắc năm 1919 – 1920, tạo lớp công chúng hiểu biết cải lương, tiếp theo những ban hát cara bộ Nam ra diễn, sau đó là các ban cải lương: Huỳnh Kỳ, Phứơc Hội, Phước Lập ban, Tân Lập, Nghĩa Hiệp ban… ra diễn tạo bầu không khí sôi động trong nhân dân mê hát cải lương. Cả Hà Nội náo nức bàn tán về cải lương, hâm mộ rạo rực của công chúng buộc các ban hát bội Hà Nội chuyển qua diễn cải lương. Phong trào diễn cải lương lên cao, tạo công ăn việc làm cho nhiều nghệ sĩ cải lương Nam ra Bắc luyện tập cho diễn viên chèo, hát bội Hà Nội chuẩn bị diễn cải lương.



Sự chuẩn bị ra đời cải lương Bắc có thời gian dài: giới thiệu làm quen, tiếp nhận từ năm 1919, công chúng xem các đoàn Nam diễn Cara bộ. Năm 1920 xem đĩa hát, năm 1921 xem các đoàn cải lương Nam diễn. Năm 1925, sinh viên Nam bộ ra học Hà Nội diễn cải lương. Năm 1925, các nhóm tài tử Hà Nội, Đồng ấu Quảng Lạc, tài tử phố Hàng Giấy, Lò Đúc… Đàn ca cải lương. Năm 1924, Nguyễn Đình Nghị diễn chèo cải lương tại Sán nhiên đài, năm 1926, nhóm Đồng ấu diễn cải lương rạp Quảng Lạc… Phong trào xem cải lương từ công chúng, phong trào diễn cải lương nghiệp dư, các ban hát Nam bộ ra Bắc diễn, đào tạo nghề cải lương cho diễn viên Bắc. Năm 1926, Hà Nội có các đoàn diễn cải lương, là điều kiện ra đời cải lương Bắc, cái nôi khai sinh cải lương Bắc ở Hà Nội. Tuy vậy, sự ra đời cải lương Bắc có hai giả thiết lập luận khác nhau:



- Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng cải lương Bắc vào năm 1930 mới có các đoàn diễn tại các rạp Hà Nội và ngoại tỉnh.

- Theo ông Trần Quốc Vượng cuốn Lịch sử thủ đô Hà Nội, chủ biên Trần Huy liệu, Nhà xuất bản Sử học Hà Nội năm 1960, trang 147 – 148, cho rằng cải lương Hà Nội ra đời năm 1920 đến năm 1930 phát triển mạnh.

- Theo nhiều nghệ nhân và tác giả Ngọc Văn cho rằng: cải lương Hà Nội ra đời năm 1926, vở đầu tiên của nhóm Đồng ấu: Nhạc Vân thí võ Kim Đan Tử, Đêm 21-11-1926.



(2) Đêm 22-11, diễn vở Triệu Tử Long, ông ghi danh sách vở diễn với các

vai. Theo ông hai đêm diễn của họ rất thành công, công chúng Hà Thành nức lòng khen ngợi hát hay, múa đẹp…Qua những tư liệu đã dẫn, cải lương bắc ra đời năm 1926, từ năm 1926 đến năm 1930, giai đoạn phát triển cải lương các tỉnh phía Bắc.Năm 1945, cải lương Bắc hoàn chỉnh đội ngũ, diễn viên, tác giả và công chúng ………………………………………………………………………………

2*.trích trang 19 – 20, nghệ thuật cải lương trên đất Bắc

yêu thích cải lương.



2.sự phát triển cải lương Bắc.



Nhóm Đồng ấu, do ông Sáu Cương, nguyên là kép cải lương Nam Bộ, sau khi nhóm Huỳnh Kỳ tan rã, ông ở lại làm kép chính diễn cải lương tuồng cổ tại rạp Quảng Lạc, ông đào tạo lớp học sinh Đồng ấu đầu tiên cho cải lương Hà Nội (theo Lệ Thanh kể). Nhóm Đồng ấu của ông diễn cải lương thành công tại rạp Quảng Lạc, liền được thu nhận vào rạp gọi là Đồng ấu Quảng Lạc.



Nhóm Đồng ấu Quảng Lạc trở thành ban cải lương đầu tiên của cải lương Bắc diễn cải lương tuồng Việt, tuồng Tầu, gồm các vở: Sơn Hậu, Na Tra dóc thịt, Thí võ Lý Nguyên Bá… Những diễn viên của Đồng ấu: Quỳnh Tư, Kim Vân, Hai nghi, Nhật Thanh, Ngọc Văn, Văn Lộc, Phạm Dư, Vương Cẩm, Hồng Phấn, Mỹ ảnh. Năm Bày, Hồng Hiệp Nhật Thành… (theo tư liệu Ngọc Văn). Sau nhóm Đồng ấu Quảng Lạc trở thành trung tâm đào tạo diễn viên cải lương Bắc, hầu hết các diễn viên nổi tiếng sau này đào tạo từ các đoàn ở Nam ra, học tại các lớp Đồng ấu Quảng Lạc như Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Hợp… Năm 1927, nghĩa hiệp ban, từ Nam ra Trung kỳ, đến Hà Nội diễn tại Quảng Lạc, có đào kép nổi danh: Năm Ty, Năm Ngời, Bảy Lục, Sáu Ná, Ba Vân, Sáu Lò, Tư bố, Ba trụ, Hai Ký. Sau đó Huỳnh Kỳ lại tăng cường diễn viên cho cải lương Hà Nội. Nữ tài sắc, ca hay, múa đẹp: Ba Xuân, Tứ Tý, Bảy Nhỏ, Hai Nữ, Ba Vinh…

Năm 1926 đến năm 1930, Hà Nội có các đoàn cải lương:



1. Đồng ấu Quảng Lạc

2. Nghĩa Hiệp ban (ở Nam ra)

3. Ca kịch đoàn

4. Càn Long hội

5. S.Y.A.A.

6. U.C.A.H

7. Tân Thanh…



Chỉ sau bốn năm ra đời cải lương Bắc, Hà Nội có bảy đoàn luân phiên diễn cải lương tại các rạp, cải lương Bắc kỳ, Nam kỳ.



Các đoàn cải lương pha trộn diễn viên Nam – Bắc, đoàn kết một nhà xây dựng cải lương trên đất Bắc, một tình cảm nghệ sĩ và máu thịt của người dân Việt. Đó là bằng chứng lịch sử cảm động về tình cảm Nam Bắc con dân một nước, chung lo xây dung cải lương. Bảy ban hát và sự lưu diễn của các đoàn cải lương Nam tới Hà Nội, con số này không cao so với Sài Gòn, nhưng nhìn lại cải lương Bắc lần đầu tiên có bảy đoàn là khá cao. Từ bảy đoàn Hà Nội, một số tỉnh phía Bắc có các đoàn cải lương tiếp tục ra đời từ sự ảnh hưởng của hai dòng cải lương: Cải lương Nam, Cải lương Hà Nội tạo thành sự phát triển cải lương các tỉnh phía Bắc.



3. Cải lương Bắc giai đoạn 1930 - 1945



Cải lương Bắc sau quá trình tích luỹ ra đời các lối hát cải lương tại Hà Nội, thành phong trào xem cải lương ảnh hưởng khắp các tỉnh phía Bắc.Các đoàn cải lương Nam, cải lương Bắc ra diễn ở các tỉnh Hải Phòng, Nam Định, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Ninh…để lại những ấn tượng dẫn đến sự phát triển cải lương ở các tỉnh. Từ bảy đoàn ở Hà Nội, gần đến năm 1930, nhiều ban hát diễn vở mới còn đề quảng cáo cải lương Nam kỳ, sau những hình thức phân biệt này bị bỏ quên, chỉ còn biển hiệu diễn cải lương.



Nghệ thuật cải lương trở thành di sản chung của công chúng, bởi sự phát triển mạnh cải lương Bắc, có các ban hát, tác giả, diễn viên, công chúng tạo dựng phong cách cải lương.



Năm 1930, phủ Lạng Thương, có đoàn cải lương tuồng cổ Vinh Quang

diễn viên: Ánh Tuyết, Thuý Mùi, Ngọc Loan, ông diễn cải lương tuồng cổ tại thị xã phủ Lạng Thương, lúc hợp, lúc tan, đến năm 1960 mới tan rã.



Năm 1931, tới Lạng Sơn đoàn cải lương của Văn Được khai trương tên là: Tân Việt, đoàn có nhiều diễn viên nổi tiếng xứ Bắc như Sác lốt Thọ, Ba sướng, Hai Thương, Ba Hiển Sáu kình, Văn Mầu, nữ có Bảy Tuyền, Yến Nga, Ba Sánh…Đoàn diễn các vở: Lục vân tiên, Bội phu qủa báo, Khúc oan vô lượng…



Năm 1932, ông Trần Phềnh họa sĩ, lập đoàn hồ Quảng diễn cải lương Triều Quảng, công chúng hâm mộ, đặc biệt xem cảnh trí lộng lẫy, vẽ tả thực lung linh, công chúng gọi là: Cải lương Trần Phềnh. Đoàn có soạn giả, thường dạy cải lương đoàn Bá Chính. Ông là người kèm dạy Lệ Thanh từ bé và nhiều nghệ sĩ danh tiếng cải lương Bắc. Diễn viên có: Bá Quyền, Văn Bắc, Hồng Kỳ, Nguyễn thiện… Đào Khánh Hợi, Thu Nhi, Ngọc Oanh, Kim Tước …Đoàn diễn các vở: Thánh mẫu thượng ngàn, Cảnh làm dâu, Thần công lý, Tam hoàng tử tranh hôn, Lã Bố Điêu Thuyền…của Đoàn Bá Chính. Đặc biệt Trần Phềnh là hoạ sĩ thiết kế trang phục, đạo cụ, sân khấu, sáng tác nhạc cho từng vở diễn, có những bài ca riêng cho các nhân vật.



Năm 1934, đoàn cải lương Hiệp Thành ra mắt công chúng tại rạp Sán nhiên đài, lúc ấy đổi tên là rạp Hiệp Thành. Rạp Hiệp Thành và các đoàn cải lương Hiệp Thành do ông Trương Văn Tố làm chủ, đặt tên đoàn cải lương Hiệp Thành bởi có đội ngũ diễn viên Nam Bắc hợp thành nhiều diễn viên nổi tiếng: Tư Cao, Hải Tùng, Tư Chơi Sáu Hải, Năm Út, Tư Vĩnh, Sáu Kình, Thọ An, Bảy Hậu, Hoan Lạc, Sáu Thảo, Si Mông (hề), Năm Vi (hề)…Đào: kim Thoa, Đào Mão, Thuý Nga, Hồng phấn, Hai Thung, Cẩm Tú,…Đoàn diễn các loại cải lương tuồng cổ truyền thống, đương đại. Một số vở kịch tây chuyển thể cải lương.



Năm 1935, ông Bửu Long (Long Bưởi) lập đoàn cải lương Quảng Lạc có các diễn viên: Đào Mộng Long, Tư An, Ba Thâu, Huỳnh Kỳ, Sĩ Tiến, Văn Bảy, Hai Em, Bảy Cư, Sáu Đào, Văn Mầu,… Diễn viên nữ: Bẩy Cồng, Lý Nương, Bạch Hường, Tường Vi, Ba Liên, Hồng Liên, Mỹ ảnh… Rạp Quảng Lạc mới hội tụ sân khấu tuồng Bắc, nay chuyển sang diễn cải lương Triều Quảng.



Tại Hải Phòng đầu năm 1935, đoàn cải lương ứng Lập công diễn ở rạp Sông Cấm, sau đó diễn ra các tỉnh: Hải Dương, Nam Định, Bắc Ninh…có một số vở cải lương tuồng Phật; Thánh mẫu thượng ngàn, Phật nhập niết bàn…



Từ năm 1930 đến năm 1935, cải lương Bắc diễn các loại: Cải lương Triều Quảng, cải lương xã hội, tuồng tây, tuồng phật.



Năm 1934, Đoàn Cải Lương Ái Liên công diễn tại Hà Nội, có các nghệ sĩ: Ái Liên, Hồng Hiệp, Hồng Liên, Lan Phương, Đào Mộng Long, Hoàng Bách, Tư Sinh, Quốc Dũng, Thọ An… diễn cải lương đương đại, có một số cải lương mang tinh thần cách mạng. Bà Ái Liên là người đầu tiên ở ngoài Bắc hưởng ứng phong trào tân nhạc từ năm 1930, hát những bài lời ta điệu Tây, những bản nhạc Hồng Kông, Pháp… thu đĩa được công chúng hâm mộ. Sau này vào đoàn cải lương bà tiếp tục hát nhạc cải cách và sáng tác một số vở cải lương cách mạng.



Hà Nội còn có đoàn Đồng ấu, Nhật Tân, Quảng Lạc năm 1935, 1936, nghệ sĩ Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Hợp… vào nghề trưởng thành từ đây.



Năm 1937, đoàn cải lương Quảng Thành công diễn tại phố Bạch Mai, nay là Nhà Văn hoá Quận Hai Bà, diễn viên: Tư Hiền , Nhật Thanh, Hồng Ngọc, Sác Lốt Miều (hề), Ngọc Danh, Mỹ ảnh, Kim Vân, Bạch Tri,…Đoàn có diễn viên tuồng, cải lương, chèo, điện ảnh, nhưng đoàn thường diễn cải lương tuồng cổ.



Tại Nam Định, ông Trần Thành ra mắt đoàn cải lương Bình Minh, nay là rạp Bình Minh tại thành phố Nam Định năm 1937. Đoàn có các diễn viên: Trần Thịnh, Ba lý, Ba Bái, Thành An, Ba tri… diễn chèo cải lương các vở: Lưu Bình Dương Lễ, Tống Trân Cúc Hoa…



Tại Nam Định còn đoàn Long Thịnh, ra đời năm 1938, diễn viên: Kim Liên, Thanh Hải, Cẩm Thuý, Ngọc Toàn, Văn Lộc… diễn cải lương tuồng cổ.



Năm 1938(3), nghệ sĩ Mười Bửu lập gánh Hồng nhật, diễn viên có: Ba Sáng, Bảy Thương, Tư Ban, Sĩ Hoàng, Sáu Đào, Ba Chức. Các diễn viên nữ: Kim Chi, Hồng Liên. Đoàn Hồng Nhật… diễn vào Ninh Bình, Thanh Hoá, Vinh, sang Lào… Cải lương Bắc có sức ảnh hưởng đến mọi miền đất nước.



Năm 1938, đoàn cải lương Đồng ấu Quốc hoa ban, các diễn viên: Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Hợp, Bạch Yến, Bích Được, Quỳnh Nga, Mộng Dần, Tuấn Sửu, Ba Thiềng, Giang Long, Hề cò, Tư Ban, Bích Lộc… Đoàn diễn các vở cải lương xã hội như Trang tử cổ bồn, Mỵ Châu Trọng Thuỷ…



Tại Hà Nội còn đoàn Tùng Châu, các diễn viên: Huỳnh Thái, Hồng Hiệp, Thái An, Mộng Dung… Đoàn diễn cải lương tuồng cổ, dựng lại những vở cổ, sau một năm tan rã.



Năm 1939, (theo ngọc Văn), tại Nghệ An, Đoàn Hồng thanh ra mắt công chúng, có diễn viên: Ngọc Thanh, Ba Chi, Hề Núi, Thanh Thảo,Kim Thụ… diễn tuồng, chèo, cải lương. Sau đó thêm đoàn đồng tử âu ca, Đồng ấu. Hai đoàn chuyên diễn cải lương có nghệ sĩ ái Sơn, Hề Thịnh…. Các Đào: Ngọc Trai, Ngọc Vân, Băng Tâm, Lệ Bình, Lệ Tình… Diễn các vở: Hai bàn tay máu, Chiếc ngai vàng, Con thú dữ, Vì nước của ái Sơn.

Cải lương Bắc sau năm 1930, xuất hiện những vở cải lương yêu nước, đó là sự ảnh hưởng phong trào đâú tranh cách mạng tác động đến văn nghệ sĩ, diễn viên. Khơi dậy lòng tự hào cho công chúng. Vào những cải lương phát triển mạnh, hàng chục đoàn cải lương từ Nam ra Bắc diễn như: ánh Ngọc, Tân Thinh, Việt Kịch năm châu, Phụng hảo, Hồng nhật, Phi phụng, Trần Đắc, Phước Cương, Tân hồng ban, Nhạn trắng… Những đoàn cải lương Nam ra diễn trên đất Bắc, tạo công chúng và truyền nghề vững mạnh cho cải lương Bắc.



Cải lương Bắc từ năm 1930 đến năm 1945, tại Hà Nội có 18 đoàn, 4 đoàn đồng ấu, tại các tỉnh có từ hai đến bốn đoàn như Nam Định, Bắc Ninh, Thanh Hoá, Hải Phòng…Tổng số đoàn cải lương có 32 đoàn cải lương. Tuy nhiên, những đoàn này hợp tan bất ổn, sau năm 1945 tan rã gần hết. Một số đoàn chạy ra kháng chiến, hội đô ở liên khu III Thanh Hoá, số còn lại ở Hà Nội. Sau năm 1945, Hà Nội còn hai đoàn Kim Chung, Chuông Vàng, Thanh Hoá còn bốn đoàn.

...............................................................................................................................

3* Trích trang 90, Nghệ thuật cải lương trên đất Bắc

của ngọc văn - Viện sân khấu - Trường Sân Khấu Điện Ảnh: 2000



Cải lương Bắc còn tám đoàn trên khắp các tỉnh miền Bắc, Sau năm 1945, cải lương Bắc chia thành hai ranh giới: cải lương cách mạng kháng chiến, diễn những vở lịch sử, dân gian, một số vở đương đại phục vụ lớp người mới. Cải lương vùng tạm chiếm diễn cải lương tuồng cổ, kiếm hiệp, hương sa, cải lương tình cảm xã hội. Những câu chuyện tình lãng mạng, cải lương thương mại. Cải lương Bắc qua ba giai đoạn hình thành - ra đời - phát triển, ra đời các đoàn cải lương có khuynh hướng phong cách riêng. Qua từng giai đoạn lớn mạnh, có đội ngũ tác giả, diễn viên, công chúng số đông hưởng ứng. Đội ngũ tác giả đầu tiên của cải lương Bắc như: Đoàn Bá Quyền, Nguyễn Đăng Phong, Đoàn Bá Chính, Phạm Công Bình, Phạm Ngọc Khôi, Ngọc Văn, Sĩ Tiến, Vũ Đào, ái Sơn, ái Liên (diễn viên)… Số tác giả cải lương Bắc không đông, nhưng đủ để có vở diễn cho một số đoàn tạo phong cách riêng. Tác giả cải lương Bắc xưa và hiện nay thường quá ít so với tác giả cả lương Nam, đây là một điểm yếu, cho thấy tác giả cải lương rất khó đào tạo, không như diễn viên.



Diễn viên cải lương Bắc có đội ngũ khá đông nhiều người nổi tiếng như: ánh Tuệ, Bích Thuận, Văn Thái, Mộng Lan, Lữ Nhàn, Lệ Sửu, Văn Mão, Tường Vi, Thuý Liễu, Lệ Mai, Hải Tí, Văn Thìn, Sĩ Thành, Tư Giã, Phan Ninh, ái Liên, Bích Được, Bích Hợp, Khánh Hợi, Ba Bí, Tám Ngân, Văn Khoa, Ba Thiện, Ngọc Văn, Văn Giáo, Sáu Phú, Hai Giò, Chín Sâm, Ba Nhung, Tư Kình, Tư Liên, Tư Tín, Hoa Ngân, Trung Cao, Hồng Ngọc, Sác Lốt Miều, Năm Vi, Văn Nhân, Bá Nghĩa, Văn Khoa, Ba Thiện, Ngọc Sắc, Tư Thản, Văn Đức, Vương Cần, Thanh Liên, Ben La Như Nhung, Bảy Cồng, Tư Đông, út Dân, Quỳnh Tư, Năm Bảy, Kim Vân, Kim Ngôn, Mỹ ảnh, Hồng Phấn, Kim Lộc, Hai Nghi, Đào Mộng Long, Hồng Hiệp, Vương Cẩm, Nhật Thanh, Đình Xuân, Lệ Thanh, Ngọc Dư, Anh Đệ, Tuấn Sửu, Tuấn Nghĩa, Kim Thoa, Kim Chung, Kim Xuân, Hồng Liên, Gia Kình, Văn Suý, Xuân ứng, Huỳnh Thái, Chính Phú, Năm Ngũ (chèo), Lê Hậu, Trần Mão, Văn Tý, Bé Thìn, Hề Thọ, Hề Thịnh, Ngọc Vân, Mỹ Duyên, Băng Tâm, Lệ Bình, Tư Sinh, Tùng Giang, Tư Hiền, Sỹ Cường, Thu Chung, Thuý Nga, Bích Liên, Ngọc Oanh… Số diễn viên có hàng trăm người rải trên hàng chục đoàn cải lương khắp các tỉnh miền Bắc. Cải lương Bắc phát triển vững mạnh, hình thành phong cách cải lương Bắc, mỗi giai đoạn có khuynh hướng riêng:



- Năm 1926, ra đời cải lương Bắc, diễn cải lương xã hội

- Năm 1930, cải lương lãng mạn

- Năm 1932, cải lương Triều Quảng Trần Phềnh.

- Năm 1938, cải lương tuồng Phật

- Năm 1939, cải lương tuồng Tây

- Năm 1940, cải lương yêu nước.



Cải lương Bắc, quá trình hình thành, phát triển giai đoạn 30 - 45 đã có những đoàn cải lương lớn, những nghệ sĩ, tác giả chuyên nghiệp, tạo dựng khuynh hướng phong cách cải lương Bắc.



3.1. Nghệ thuật diễn.



Nghệ thuật diễn cải lương Bắc xuất phát từ các thày tuồng Miền Nam ra Bắc như Sáu Cương, Tư Khôi, Mộng Vân, Năm Châu, Năm Cần Thơ… Sau đó, có các thày cải lương Bắc như Đoàn Bá Chính, Đoàn Bá Quyền, Trần Phềnh, Ngọc Văn, ái Sơn, Trần Thịnh… Những thày cải lương từ ba nguồn sang dạy: cải lương Nam, thày tuồng, thày chèo, chuyển sang dạy cải lương. Về cơ bản các thày học lối diễn cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại từ cải lương Nam, biến hoá vào cải lương Bắc tạo hình thức ca diễn riêng.



Cải lương Bắc có nguồn gốc xuất sứ từ cải lương Nam, nên sau giai đoạn 1930 – 1945, cải lương Bắc diễn như bản sao cải lương Nam. Dù nghệ thuật diễn, ngôn từ, hành động, có khác đôi chút, cả trang phục… nhưng về cơ bản gần giống cải lương Nam. Các diễn viên ca bằng tiếng Nam, đó là điểm dễ nhận ra sự lặp lại cải lương Nam, dấu ấn này còn ảnh hưởng đến tên biệt danh các diễn viên như Ba Thiềng, Chín Sâu, Năm Vi… Đặt tên theo phong tục của các nghệ sĩ Nam Bộ. Tình trạng ca cải lương tiếng Nam chiếm hầu hết các diễn viên kéo dài đến năm 1990, cải lương Bắc mới chấm dứt ca diễn cải lương tiếng Nam, chuyển sang diễn cải lương tiếng Bắc. Nghệ thuật diễn cải lương Bắc, ảnh hưởng cải lương Nam, ảnh hưởng tuồng cổ, một số ảnh hưởng tuồng chèo. Sự ảnh hưởng ngôn từ, hành động vào cải lương Bắc từ tuồng, chèo, đây là phong cách riêng của cải lương Bắc. Phong cách pha trộn truyền thống vào cải lương Bắc, vào giai đoạn phát triển mạnh. Nghệ thuật diễn qua các bước biến đổi:



- Bản sao cải lương Nam

- Biến đổi ngôn ngữ hành động ca diễn.

- Tạo phong cách riêng.



Nhiều nghệ sĩ biểu diễn cải lương Bắc, tạo phong cách ca diễn đưa chất dân ca Bắc Bộ, ngâm thơ, sa mạc, ru con… tạo phong cách cải lương Bắc hấp dẫn, mang đặc phẩm sân khấu vùng miền Bắc Bộ. Cải lương Bắc qua những giai đoạn phát triển, tạo chỗ đứng trong công chúng tồn tại, phát triển thành hình thức sân khấu đồng bằng Bắc Bộ.



3.2. Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc.



Cải lương Bắc tái lập lại bước đi ban đầu của cải lương Nam, ra đời các ban nhạc tài tử phố Lò Đúc, Hàng Giấy, tài tử của Giáo Vân, những người chơi đàn tự do, Kim Sinh, Đinh Lạng, Nhạc Tấn… hoà tấu những bài bản tài tử Nam Bộ. Ngày ấy, họ coi là những người sành điệu, tiếp nhận những trào lưu âm nhạc mới lạ từ năm 1923,… dẫn đến sự ra đời các ban nhạc tài tử, ban hát cải lương tạo dựng lớp nhạc công đàn ca cải lương. Nếu nghệ thuật diễn gần như một bản sao của cải lương Nam thì ca nhạc tài tử lại mang phong cách riêng, dù hoà tấu những bản nhạc tài tử Nam Bộ, nhưng những lối nhấn vuốt lại nghiêng về cung Bắc. Tổ chức dàn nhạc không theo biên chế từng ban tài tử mà theo nhóm có mõ, sênh tiền, song loan, phách… đây là sự khác biệt tài tử của cải lương Bắc.



Những dàn nhạc tài tử cải lương các ban hát cải lương Hà Nội thường sử dụng biên chế dàn nhạc: đàn thập lục (đàn chủ của dàn nhạc), đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tứ. Phương pháp hoà tấu: lục nổi, cò chìm, đàn Kìm giữ nhịp cho ca. Song loan, sênh tiền, phách… điểm nhịp để vào ca. Những nhạc công cải lương nổi tiếng: Trần Minh, Văn Ngọ, Minh Khanh, Xuân Đông, Ba Hưng, Văn Thập, , Đinh Lạng, Kim Sinh, Đình Long.... Năm 1936, cải lương Bắc có dàn tân nhạc trong ban hát của nghệ sĩ ái Liên chuyên đệm cho ca tân nhạc. Ca nhạc cải lương Bắc tạo cái riêng cấu trúc dàn nhạc, kỹ thuật hoà tấu, nội dung âm nhạc, năm 1930, xuất hiện sáng tác ca nhạc vào vở mới.



Năm 1932, Trần Phềnh sáng tác các điệu Hồ Quảng, nhạc Tầu vào cải lương, ngày ấy có mốt ca cải lương pha Quảng, hoặc hát bài tây thi pha Quảng nghe lạ tai hấp dẫn. Ban hát Trần Phềnh, thường có những bài Quảng do ông sáng tác như: Chiều Xuân, Trường hận, Hoài vọng… phần ca có hai phương pháp: ca bài bản cải lương, ca hơi Quảng, ca bài Quảng, hoặc pha hơi Quảng.Pha hơi Quảng trong bài bản cải lương ca nguyên bản bài bản sau chuyển qua nói lối ca hơi Quảng, hoặc trong một bài bản ca cải lương, giữa bài chuyển hơi cải lương sang ca hơi Quảng… Những vở cải lương tuồng Tầu ca nhiều hơi Quảng, bài Quảng, nhưng những vở tuồng Việt người ca chuyển hơi Quảng để được hoan nghênh. Cải lương Bắc, ca nhạc đầu tiên ca bài bản cải lương, tiếp đến ca hơi Quảng, sau năm 1933, còn đậm màu ca nhạc lãng mạng.Các ban diễn ca nhạc ảo não, sướt mướt như các vở: Tình Lan Điệp, Ai lau nước mắt cho cha… Năm 1935, ca tân nhạc những bài hát chào khán giả, nhảy van… là những ca khúc Pháp, Anh, Hồng Kông… Nhưng nghệ thuật ca chưa có lối ca tân cổ, thường cổ nhạc, tân nhạc là những mảng ca tách rời nhau. Kỹ thuật ca phát triển đa phong cách:



- Ca cải lương

- Ca Triều Quảng

- Cải lương pha Quảng

- Cải lương – Tân nhạc



Tổng thể ca nhạc cải lương, phát triển các hình thức ca, đặc biệt xuất hiện một số hình thức ca ngâm thơ, sa mạc, ru con, đọc kinh, ru kệ… vào cải lương. Ca nhạc cải lương Bắc có mầu sắc riêng phong cách đồng bằng Bắc Bộ, kỹ thuật ca mới vào nhạc cải lương, hấp dẫn có tính tân thời.



B. Mỹ thuật.



Mỹ thuật cải lương, từ năm 1930 đến năm 1945, phát triển theo khuynh hướng vở diễn, ảnh hưởng các hướng cải lương tuồng cổ, tuồng Tầu, tả thực và ước lệ của kịch nói. Các ban hát lớn tại Hà Nội có hoạ sĩ riêng, Sán nhiên đài, Đồng ấu Quảng Lạc. Đại Quốc hoa có hoạ sĩ Mộng Long, Mộng Goòng, Trọng Can… Phần lớn sân khấu trang trí tả thực vẽ cầu kỳ, chi tiết tranh thủy mặc, trang trí lộng lẫy, hoành tráng. mhững vở cải lương hát nhạc Tây có những lớp diễn cảnh thật, đồ thật… Các ban hát ảnh hưởng nhạc kịch opera Pháp, mở màn có lớp chào khán giả, đưa các đào kép hoá trang theo nhân vật đứng hát. Hoá trang vẽ my, vẽ mặt các nhân vật kép đỏ, kép rừng xanh, kép mặt trắng… Các đào vẽ my, hoá trang đậm theo nhân vật. Phục trang cải lương tuồng cổ, áo tay nước, đi hài, mũ lông chim,… tuỳ theo nhân vật. Trang phục, hoá trang theo hình mẫu các nhân vật có tính tả thực. Kép trang phục giống như tuồng cổ. Mỹ thuật cải lương Bắc tiến nhanh bởi kế thừa cải lương Nam, tuồng cổ sớm hoàn chỉnh phong cách, khuynh hướng. Mỹ thuật cải lương xưa, các hoạ sĩ một mình tự vẽ ma két, thực hành công phu, chi tiết tả thực như thật. Sân khấu mang tính hình thức, tìm mọi cách chinh phục khán giả, mỗi hình thức cố ý tìm hình thức chiếm lĩnh công chúng.



Mỹ thuật cải lương Bắc các hoạ sĩ Mộng Long, Trần Phềnh, Mộng Goòng, Trọng Can… Mỹ thuật mới đầu mang theo trang trí tuồng cổ. Riêng cải lương Trần Phềnh trang trí theo tranh Tàu, sân khấu triều Quảng. Những vở cải lương đương đại trang trí tả thực. Người diễn viên tìm cách xâm nhập vào trái tim công chúng trở thành thần tượng của họ bằng ngoại hình, trang phục, hoá trang mang hình mẫu một nhân vật ấn tượng ngay khi bước ra sân khấu và quá trình diễn.Mỹ thuật sân khấu, mỗi ban hát, mỗi hoạ sĩ tạo ấn tượng riêng thành phong cách nhà hát, ấn tượng một vở diễn, làm nhiều người xen ngoài giọng ca, hình thức đẹp của một cô đào, một chàng kép hát, nhiều người còn mê chính cảnh trí của ban hát. Mỗi lần có vở diễn mới lại đến xem những cảnh sân khấu lộng lẫy, phục trang óng ánh kim tuyến, kim sa… Bằng mọi hình thức, dáng vẻ sân khấu cải lương chinh phục công chúng ngay hình thức bên ngoài, những vẻ đẹp đập vào mắt người xem. Sau đó là câu chuyện kịch ly kỳ, trắc trở, tình tiết éo le, bi luỵ, làm người xem luyến tiếc mãi một ban hát với tất cả ấn tượng bị khuất phục. Mỹ thuật cải lương, ngay cửa rạp nhìn lên mỗi vở mới vẽ quảng cáo cảnh trí, trưng ảnh những đào kép nổi tiếng hạng sao, siêu sao mà công chúng hâm mộ. Mỗi ban hát một hướng diễn cải lương trang trí theo phong cách riêng, cải lương Đồng ấu, Nhật tân ban chuyên hát những điệu Quảng Trần Phềnh, hoạ sĩ Trần Phềnh, trang trí đến mức ban cải lương Đồng ấu đổi thành tên gọi chung là cải lương Trần Phềnh. Tên hoạ sĩ thành tên ban hát, được công chúng đặt tên và suy tôn, là chuyện xưa nay không thể có trong bất cứ ban hát nào, đó là sự thành công cao. Mỹ thuật cải lương Bắc có các hướng:



- Mỹ thuật cải lương tuồng cổ

- Mỹ thuật tả thực

- Mỹ thuật cải lương tuồng Tầu.



Mỹ thuật trang phục, hoá trang cải lương Bắc hoàn chỉnh từ khuynh hướng, phong cách theo quan niệm của mỗi ban hát, mục đích chinh phục công chúng bằng mọi hình thức nghệ thuật. đó là mục đích tồn tại, doanh thu của từng ban hát, nhưng phần nào lại nói lên sự trân trọng khán giả, đáp ứng thị hiếu, tìm cái khoái lạc trong nghệ thuật. Mọi hoạt động nổi bật của sân khấu cải lương vì mục đích doanh thu, nhưng lại thành công vì nghệ thuật. Mỗi giai đoạn cải lương Bắc, là từng bước trưởng thành nghệ thuật, phát triển cải lương với số lượng các ban hát, đội ngũ tác giả diễn viên, tác phẩm và công chúng.



Lịch sử cải lương 5
Tuấn Giang

III. Cải lương miền Trung



1. Sự ra đời cải lương miền trung.



Miền Trung là cửa ngõ thông thương nối ba miền văn hoá, nghệ thụât, Bắc – Trung – Nam, là cửa ngõ giao lưu với các nước láng giềng, Lào, Cam Bốt Đia, từ đó nối đến khu vực Đông Nam á. Nhưng Miền Trung lại không bộc lộ sự giao lưu ấy, đến Miền Trung chỉ gặp những điệu dân ca, những truyền thống sân khấu riêng, những dòng ca nhạc không lai tạp, giao lưu với bất kể nơi nào. Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc chỉ tìm thấy sự ảnh hưởng những điệu dân ca Miền Trung tới các miền, không thấy chiều ngược lại, những năm đầu thế kỷ XX, mới thấy sự giao thoa các vùng ca nhạc, dân ca và sân khấu.



Miền Trung, có nhiều trung tâm văn hoá, du lịch thiên nhiên, văn hoá bản địa đặc sắc, tĩnh lặng như nếp sống người Miền Trung, dù ở đây thiên nhiên khắc nghiệt bão tố gầm gào nhưng con người bình lặng kiến tạo những truyền thống văn hoá nghệ thuật riêng. Miền Trung có nhiều truyền thống ca nhạc, nhiều làn điệu dân ca: Lý lu là, Lý chiều chiều, Lý kéo chài, Lý chuồn chuồn,… vào cải lương rất hay. Miền Trung có truyền thống sân khấu nằm ở các trung tâm văn hoá, sân khấu: dân ca Huế, hát múa cung đình, nhiều hình thức diễn xướng dân gian Huế, tuồng Huế… Đà Nẵng có những hình thức diễn xướng dân gian, dân ca, tuồng Đà Nẵng… tuồng Bình Định, Quy Nhơn, Nha Trang… Nhiều hình thức diễn xướng dân ca gắn nghề đi biển với các trò diễn sân khấu, dân ca Chăm, sân khấu Chăm. Văn hoá, nghệ thuật, ca nhạc, múa, sân khấu Miền Trung là một dòng văn hoá, âm nhạc bản địa đặc sắc, phong phú, độc đáo, nhưng không cởi mở giao thoa, hoà nhập. Nền văn hoá, nghệ thuật Miền Trung nói lên những nền văn hoá quá khứ khu biệt, sản sinh ra những truyền thống nghệ thuật riêng, bảo toàn phong cách nghệ thuật, Vì những đặc điểm ấy, các nhà nghiên cứu sân khấu, âm nhạc Miền Trung như Hoàng Châu Ký, Ngọc Liễn, Võ Bài, Nguyễn Có, Minh Quang, Thế Khoa, Hoàng Chương, Trần Hồng, Hải Liên , Trương Đình Quang… trong những bài khảo luận công trình nghiên cứu không nhắc tới sân khấu cải lương Miền Trung, hoặc có nhắc tới nghệ thuật ca nhạc cải lương nói chung ảnh hưởng bài chòi không nói tới sự ra đời nghệ thuật cải lương. Miền Trung coi như không có sân khấu cải lương. Thực tiễn Miền Trung có sân khấu cải lương, cải lương hấp dẫn công chúng đến mức, những bài Chòi của sân khấu bài Chòi, ca pha làn điệu cải lương. Có nghệ sĩ ca bài Chòi gắn với điệu Vọng cổ, hoặc sáng tác một số điệu mới gắn với làn điệu cải lương, nhưng nghệ thuật cải lương không nhắc tới sự có mặt một hình thức sân khấu của Miền Trung. Sân khấu cải lương Miền Trung ra đời trong hoàn cảnh từ ngoài ghép vào, nhưng không sôi nổi cắm rễ sâu như cải lương Bắc. Khi nào thuận lợi về kinh tế xã hội cải lương phát triển, gặp khó khăn tan biến ngay. Cải lương Miền Trung không có gốc tồn tại lâu dài, sự ra đời sân khấu cải lương không có gốc chỉ là sự lai ghép nên không bền vững. Cải lương Miền Trung ra đời từ những ban hát cải lương Nam ra Miền Trung diễn kiếm sống, có ban đi qua ra miền Bắc, hoặc trở về Nam. Một số ban ra diễn bị gẫy gánh, có ban tập hợp một số người địa phương liên kết thành ban hát cải lương. Sân khấu cải lương Miền Trung không có những ban hát tài tử cải lương. Sự khác biệt ấy, cải lương Miền Trung không phát triển, tồn tại trong đời sống công chúng. Gần như Miền Trung không có công chúng yêu thích cải lương, dù có nhưng chưa đủ sức nuôi dưỡng tồn tại cải lương Miền Trung từ xưa đến nay. Nhiều ban hát cải lương Nam, hợp tác với những người yêu cải lương tạo dựng những ban hát có người Miền Trung, Miền Nam nhưng cuối cùng tan rã. Sân khấu cải lương không có chỗ đứng trong công chúng yêu nghệ thuật Miền Trung.



Sân khấu cải lương Miền Trung tồn tại trong những điều kiện khó khăn ấy, nên chỉ là sự lai ghép, ít có phong cách riêng cải lương Miền Trung. Cải lương Miền Trung ra đời từ những ban hát cải lương Nam Bộ, diễn viên Nam Bộ, tác giả Nam Bộ, vì thế cải lương Miền Trung ít tồn tại lâu dài, không có nhiều đoàn cạnh tranh. Cải lương Miền Trung không phát triển mhư cải lương Bắc tạo phong trào công chúng yêu thích cải lương, nhiều ban hát tranh đua ra đời.



Cải lương Miền Trung có những ban hát từ Nam ra diễn, coi là sự xuất hiện cải lương, mở đầu Nghĩa Hiệp ban ra diễn ở Quy Nhơn, Đà Nẵng, sau đó ra Hà Nội. Tân Lập ban ra diễn Miền Trung qua sáu tỉnh, tiếp tục ra Hà Nội… Liên tục từ năm 1930, các ban hát cải lương lớn nhỏ ra Miền Trung, một số ban ở lại lập nghiệp cải lương tại các tỉnh: Đà Nẵng, Phú Yên, Quy Nhơn, Nha Trang… Ban Huỳnh Kỳ, Phước Cương, Trần Đắc, Phụng hảo, Nhạn trắng, Tân thinh… đã để lại nhiều đào kép tạo dung cải lương Miền Trung



Tại Phú Yên năm 1923, Đoàn Cải lương Tân lập có các nghệ sĩ diễn viên Nam Bộ và người địa phương: Tư Cao, Sáu Sang, Năm Siêu, Năm Thạch… diễn các vở: Lục Vân Tiên, Dưới mái tây hiên, Bèo nước duyên mây… Năm 1924 có thêm các đoàn: Phước hội, Phước lập…

Sân khấu cải lương Miền Trung ra đời năm 1921, do các ban hát Nam Bộ trên đường ra Bắc, dừng lại xây dựng đoàn bổ sung các diễn viên Miền Trung, một số đoàn ở lại xây dựng nghệ thuật cải lương, một số đoàn ra Bắc hoặc về Nam. Vì những điều kiện ấy, Năm 1940 – 1945, có các đoàn Nhạn trắng, Phụng hảo, Minh Phương. Năm 1921, ở Nha Trang có Phước hội ban. Diễn viên: Mai Lộc, Tư Cao, Ngọc Đáng, Ba Lợi, Tám Dậu, Tư Bơ… diễn cải lương đương đại. Các vở: Ai giết người, Người điên biết yêu, Toà án lương tâm… Ngoài ra còn một số vở cải lương tuồng cổ: Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa, Chiêu quân… Đây là đoàn cải lương gần như chính hiệu miền Trung vì có bầu chủ người Nha Trang, có một số diễn viên Nam Bộ, còn số đông người địa phương. Nghệ thuật diễn của Phước hội, gần với ca ra bộ, nhiều người còn đứng ca ít hành động, các nhân vật đi lại tự nhiên đời thường. Phong cách diễn cải lương đương đại gần với kịch nói, có xen những câu chọc cười như nghệ thuật ca ra bộ. Tại Nha Trang có hai đoàn, Đà Nẵng một đoàn Đồng ấu Hoà bình. Diễn viên Văn Tiếp, Ba Dưỡng, Tư Tráng, Hai Lịch, Thu Thủy… diễn các vở: Bảy chú lùn, Sơn hà xã tắc…



Tại Miền Trung năm 1921 – 1945, có tám đoàn cải lương,phần lớn từ Nam ra diễn, sau đó ở lại lập đoàn mới. Một số tỉnh Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Yên, Quy Nhơn, có đoàn do người địa phương bầu chủ, nhưng diễn viên thường có các nghệ sĩ Nam Bộ. Cải lương Miền Trung ra đời sớm, nhưng không phát triển mạnh, không có ban lớn tồn tại lâu dài.



2. Nghệ thuật diễn.



Nghệ thuật diễn cải lương từ Nam Bộ đến Bắc – Trung, những năm đầu phát triển thường diễn theo nghệ thuật ca ra bộ,hoặc theo điệu bộ tuồng nhẹ hoá gần với hành vi đời thường. Diễn theo nghệ thuật ca ra bộ, là hình thức diễn ca nhạc thính phòng, người diễn viên đứng ca, đi lại, chỉ tay nhẹ nhàng, ít hành động mạnh mẽ, cường điệu. Những hình thức diễn bộ là minh hoạ lời ca, hình thức này còn theo suốt chiều dài lịch sử cải lương, sau giải phóng, nhiều diễn viên Nam Bộ còn diễn theo nghệ thuật ca ra bộ. Đôi lúc xem bị phản cảm, vì tự nhiên một diễn viên bước lên đứng ca bài Cây sầu riêng trổ bông, như một đơn ca nhạc cổ điển thính phòng rất ít động tác diễn. Hình thức diễn bộ xưa nhiều ban hát Tân lập, Phước hội, Sáu Súng ra Hà Nội diễn đã bị vắng khách phải vội vã về Nam, nhưng nhiều diễn viên cứ giữ lối diễn ấy, họ dựa vào lối phục trang đẹp, khoe giọng ca hay. Diễn viên nào không đạt “tiêu chí” ấy sẽ bị mất công chúng.



Những ban hát Miền Trung diễn ít sáng tạo, phần lớn diễn theo các ban hát cải lương Nam Bộ, mặt khác họ diễn theo ca ra bộ. Sau những năm 20 của thế kỷ trước, hình thức diễn ca ra bộ bị coi là cổ hủ, thiếu hấp dẫn. Những nghệ sĩ bảo lưu hình thức diễn này họ là hạng sao, siêu sao mới đủ sức chinh phục khánh giả, chưa kể có những cô đào nghiêng nước, nghiêng thành chỉ cần bước ra sân khấu cả đám đông hỗn loạn. Những đào kép ấy, chỉ cần có tên của họ, ban hát đã hốt bạc, nên họ diễn gì, ca gì chẳng ăn khách. Những ban hát nhỏ, diễn viên bậc trung không thể diễn theo nghệ thuật ca ra bộ, nhiều ban hát phải quảng cáo diễn cải lương đánh “đồ thiệt” , diễn cải lương Triều Quảng… tìm đến sụ khác lạ hấp dẫn công chúng. Một số đoàn cải lương Miền Trung, Tân lập, Phước lập… đã tìm đến cái riêng trong ca nhạc đưa vào những điệu hò lý Miền Trung làm phong phú ca nhạc cải lương tạo phong cách riêng. Từ đó nghệ thuật diễn trở về diễn xướng dân ca Miền Trung, nhưng hình thức này chưa dược công chúng cải lương đón nhận. Các ban hát cải lương không tồn tại lâu, không có nhiều diễn viên ngôi sao Miền Trung.



Nghệ thuật diễn cải lương Miền Trung, diễn theo nghệ thuật ca ra bộ và những hình thức diễn xướng dân gian cải lương hoá, một hướng ứng dụng sáng tạo nghệ thuật diễn có tính bản địa mới lạ. Những hình thức ca diễn mới chưa đủ sức chinh phục công chúng, chưa tạo dựng phong cách lớn ở từng ban hát để kéo dài sự sáng tạo nghệ thuật trong công chúng. Nếu phong cách Miền Trung được nuôi dưỡng lâu dài chắc chắn sẽ thành công, bởi nghệ thuật là sự khác lạ, luôn tìm đến sự khác lạ nhưng phải giữ dược truyền thống, đó là bản chất cải lương.



3. Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc



Âm nhạc cải lương, âm nhạc phụ thuộc vào vở diễn từng ban hát, cải lương Miền Trung khá hiền lành tĩnh lặng, phần lớn các ban diễn cải lương xã hội, một hai ban diễn tuồng Tầu. Từ đó âm nhạc ít phát triển, nhưng có những thành công đáng bảo lưu.



Âm nhạc cải lương Miền Trung có đặc điểm riêng, bảo lưu vốn bài bản cải lương, một số nghệ sĩ đưa dân ca vào cải lương tạo phong cách riêng. Những sáng tạo ấy, nuôi dưỡng dân ca vào cải lương là hợp với sự phát triển ca nhạc cải lương. Sau này nhiều điệu lý Miền Trung vào cải lương thành công, đây là bước đầu thử nghiệm đúng hướng, làm phong phú ca nhạc cải lương. Những ban nhạc cải lương Miền Trung ở các ban hát còn ít nhạc công tài năng để sáng tác những bái ca mới vào cải lương, nên ít phát triển. Ca nhạc ở các ban hát có ba hướng:



- Bảo lưu bài cổ

- Phát triển dân ca

- Ca tân nhạc vào cải lương.



Ca nhạc cải lương Miền Trung phát triển theo các ban hát, cải lương tuồng cổ, cải lương tuồng Việt, hoà tấu bài bản cổ. Các ban diễn cải lương hoà tấu bài bản cổ pha Quảng, hát đân ca, hoặc ca tân nhạc với bài bản cổ. Ca nhạc cải lương Miền Trung góp thêm mấu sắc mới vào cải lương, dù chưa thành công cao, nhưng có ý nghĩa tiếp nhận sáng tạo ca nhạc cải lương.



B. Mỹ thuật.



Những ban hát cải lương Miền Trung chưa có hoạ sĩ chuyên trang trí sân khấu cải lương, theo nghệ sĩ Tấn Tài kể lại, thời còn nhỏ nghe các nghệ sĩ kể lại có gì diễn ấy. Cảnh trí lấy những vở cũ phù hợp treo lên diễn, một số ban thuê hoạ sĩ vẽ phong cảnh…



Mỹ thuật các ban hát vẽ theo tả thực, cải lương tuồng cổ vẽ như trang trí tuồng bộ, cải lương đương đại vẽ tranh thuỷ mặc tả thực. Mỹ thuật phục trang mỗi ban hát ít có phong cách riêng vì hướng diễn cải lương không ổn định, luôn thay đổi, mỹ thuật cốt làm đẹp vở diễn. Mỹ thuật tả thực ban Phước hội, Tân lập… đôi vở đưa đồ thật như vở Bảy người hiền… Hình thức vẽ tranh tả thực chi tiết, kết hợp bằng đồ thật trên sân khấu. Tạo cảm giác thật, không phải ảo giác. Trang phục các diễn viên mặc theo các nhân vật cải lương tuồng cổ, những vở đương đại có gì mặc ấy theo mốt thời trang, theo quan niệm làm đẹp nhân vật và sân khấu. Mỹ thuật cải lương Miền Trung phần lớn theo các ban hát cải lương Nam Bộ, có các hướng:



- Tả thực - đồ thật

- Ước lệ - tả thực.



Mỹ thuật nhiều ban hát chưa có phong cách riêng, chưa lộng lẫy hoành tráng, còn đan xen giữa tả thật và đồ thật, nên sân khấu chưa hấp dẫn qua mầu sắc mỹ thuật.



IV. ý nghĩa phát triển cải lương ba miền.



1. Khẳng định vị trí nghệ thuật cải lương.



Sự phát triển cải lương Nam Bộ lan rộng đến mọi miền đất nước, tạo sự ra đời một hình thức sân khấu mang đặc trưng nghệ thuật truyền thống và hiện đại. Sân khấu cải lương trở thành sản phẩm văn hoá, tinh thần số đông công chúng.



Nghệ thuật cải lương được công chúng cả nước hâm mộ, ra đời cải lương Nam – Bắc – Trung, mỗi vùng miền có đặc trưng chung, đặc tính riêng cải lương dân tộc các vùng miền. Mỗi giai đoạn phát triển cải lương mở rộng đội ngũ diễn viên, tác giả, các khuynh hướng cải lương và công chúng. Sân khấu cải lương phản ánh thẩm mỹ đa chiều, đa phong cách, đáp ứng đa tâm lý khán giả. Những hình thức diễn cải lương tuồng cổ, tuồng Việt, cải lương tuồng Tầu (4), tuồng Tây, cải lương hương sa, Sắc mầu, kiếm hiệp kỳ tình, trinh thám, bí hiểm, cải lương tuồng cổ, tuồng đương đại, cải lương xã hội… là những khuynh hướng phong phú của sân khấu cải lương. Tuy cách gọi khác nhau rất nhiều, nhưng có khuynh hướng chung và khynh hướng riêng. Sân khấu cải lương có hai khuynh hướng lớn: cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại. Từ hai khuynh hướng chung đi vào hai khuynh hướng nhỏ, riêng biệt: cải lương tuồng cổ có cải lương tuồng cổ, tuồng Việt, cải lương tuồng Tầu, tuồng Tây cổ điển. Cải lương

…………………………………………………………………………………………

(4*) Chữ “tuồng” nghệ nhân xưa sử dụng là kịch bản hoặc vở diễn sân khấu đương đại có: cải lương xã hội, trinh thám, lãng mạn, hương sa, sắc mầu, tuồng tây đương đại, lãng mạn… Sự phát triển cải lương đa phong cách, khuynh hướng nổi bật cải lương hai miền Nam – Bắc, Sân khấu cải lương từng bước phát triển đề xuất luận điểm nghệ thuật cải lương, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật âm nhạc, trang trí sân khấu, phục trang, hoá trang… Từng bước hoàn chỉnh nghệ thuật sân khấu, sân khấu cải lương ra đời từ tự phát, của những nghệ sĩ tài tử, thành ý thức văn hoá dân tộc. Nghệ thuật cải lương góp phần nâng cao giá trị tinh thần, giải phóng con người, tố cáo xã hội thực dân phong kiến, nêu cao lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước giác ngộ số đông công chúng hướng về cách mạng. Vị trí quan trọng của sân khấu cải lương trở thành diễn đàn văn hoá xã hội, được công chúng đồng tình trở thành sức mạnh, góp phần đổi mới nền dân chủ xã hội.



Mỗi giai đoạn phát triển cải lương củng cố vững mạnh nghệ thuật cải lương trở thành hình thức sân khấu cả nước, mỗi hình thức cải lương đem đến giá trị thẩm mỹ mới.



2.Giá trị nghệ thuật sân khấu cải lương.



Sự phát triển cải lương đem đến công chúng những giá trị văn hoá tinh thần mới, nâng cao khiếu thẩm mỹ âm nhạc, nhận thức xã hội, cải tạo nếp sống văn hoá, hướng tới xã hội văn minh.



Sân khấu cải lương giai đoạn 1930 – 1945, khởi xướng tư tưởng thời đại, chống áp bức bóc lột, vạch mạnh kẻ thù là xã hội thực dân phong kiến, nhân dân khổ cực, bị áp bức bóc lột, chỉ một con đường duy nhất đi theo cách mạng dành chính quyền mới. Mỗi giai đoạn tồn tại sân khấu cải lương từng bước tác động chung, hướng tới nền dân chủ. Giai đoạn 1918 – 1930, tố cáo xã hội, giải phóng người phụ nữ, vạch mặt kẻ thù, đứng lên dành lại cuộc sống mới. Chỉ có đường cứu nước là cứu mình. Bên cạnh những vở diễn có ý tưởng xã hội, những vở cải lương nghệ thuật phát triển đa phong cách, khuynh hướng, trở thành một hình thức sân khấu công chúng cả nước. Từng bước nâng cao nghệ thuật ca, nghệ thuật diễn. Mỗi miền có phong cách riêng cải lương Nam Bộ, cải lương Bắc Bộ, Trung bộ. Sân khấu cải lương mang đặc tính dân tộc, bản địa.



Tính dân tộc là phong cách chung biểu hiện qua hệ thống bài bản, nghệ thuật ca diễn, vũ đạo cải lương. Tính bản địa là sự sáng tạo đưa vào những bản dân ca, điệu múa các vùng miền, ngôn ngữ hành động diễn từng vùng, từng dân tộc làm cho sân khấu cải lương giầu bản sắc văn hoá, bản địa.Giá trị nghệ thuật qua mỗi giai đoạn phát triển cải lương vững mạnh toàn diện, nghệ thuật biên kịch, nội dung phản ánh hiện thực xã hội, hướng tới nền văn hoá, tư tưởng tiến bộ thời đại. Nghệ thuật ca diễn cao xuất hiện những đào kép ngôi sao cải lương, cuốn hút công chúng để cải lương xuất hiện trên mọi miền đất nước. Nghệ thuật cải lương thành một hiện tượng chính trị xã hội, buộc mọi người phải quan tâm.



3. Những thành quả sân khấu cải lương.



Ngày nay, ở vào cái thời xã hội công nghệ điện tử siêu dẫn, con người trong nền kinh tế tri thức, quan hệ đa chiều, đa hình thái nghệ thuật. Sự phong phú đời sống văn hoá tinh thần đến những năm đầu thế kỷ mới nghệ thuật đã quá đủ, không còn hình thức nào hấp dẫn, khó nhận biết giá trị văn hoá quá khứ.



Nghệ thuật hiện đại ra đời cùng với xã hội công nghiệp đem đến cái đẹp chân – thiện – mỹ. Nghệ thuật hậu hiện đại đã lật nhào mhững quan niệm mỹ học mẫu mực, đem đến thẩm mỹ đa chiều, thiết lạp hệ thẩm mỹ mới: Thô mộc - độc lập – cá thể. Nhiều hình thức nghệ thuật hậu hiện đại biểu hiện phong phú sự mô tả, sắp đặt, hành động… Nghệ thuật cùng sa lộ thông tin choáng ngợp trong mỗi con người, hôm nay nhìn lại quá khứ mới thấy cái thời bị bao vây trong lạc hậu, nghèo đói thì giá trị tinh thần là thiêng liêng cao quý. Sân khấu cải lương ra đời, phát triển là một thành quả văn hoá tinh thần của dân tộc. Sự xuất hiện hàng loạt các hình thức nghệ thuật mới ra đời, chèo cải lương, chèo văn minh, kịch nói,… là những bước tiến lịch sử. Sân khấu cải lương góp thêm sức mạnh, tạo ra động lực phát triển xã hội, cải cách nghệ thuật, cải cách văn hoá văn minh. Những thành quả nghệ thuật cải lương đạt được:



- Tập hợp công chúng cả nước hướng tới một hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật.

- Cải tạo nhận thức lối sống xã hội tân thời, chống phong kiến thực dân, bảo vệ văn hoá dân tộc.

- Tạo ra sản phẩm văn hoá nghệ thuật trên thị trường kinh tế tư bản.



Trong xã hội thuộc địa phong kiến thực dân, sân khấu cải lương tồn tại phát triển là một sản phẩm hàng hoá, tồn tại theo quy luật thị trường. Ban hát nào có công chúng tồn tại, khuynh hướng nào không có công chúng sẽ tan rã, nhưng sân khấu cải lương đã phát triển toàn diện, vững mạnh về nghệ thuật và công chúng là một sản phẩm hàng hoá, đáp ứng cung cầu của nhân dân cả nước trong nền kinh tế thuộc địa.





Chương IV



Sân khấu cải lương từ năm 1945 đến năm 1965



I. Hoạt động của cải lương Nam Bộ



Sau năm 1945, đất nước chia thành hai chính quyền, phần lớn thành thị do Pháp kiểm soát, chính phủ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà làm chủ nông thôn và các huyện thị, xây dựng nền dân chủ thực hiện cuộc kháng chiến giải phóng Tổ Quốc. Nhiệm vụ hàng đầu sau khi dành chính quyền về tay nhân dân, Nhà nước xây dựng nền kinh tế chính trị, văn hoá mới, con người mới là sản phẩm bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân. Đó là bước ngoặt lịch sử, sân khấu cải lương phản ánh hiện thực xã hội mới.



Hội nghị Văn hoá lần thứ hai 1948, xác định bản chất nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, khoa học, đại chúng nhằm xây dựng tâm hồn tình cảm con người cách mạng. Nhà nước tập chung hai mục tiêu: diệt giặc dốt, xây dựng nền kinh tế nông nghiệp làm hậu phương kháng chiến. Nhân dân vùng giải phóng thi đua yêu nước, xoá bỏ hủ tục phong kiến lạc hậu, xây dựng nền văn hoá mới đạt hiệu quả, động viên sức người, sức của đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Từ năm 1946, cuộc chiến bùng nổ, tại Hà Nội nhiều văn nghệ sĩ tham gia chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Các nghệ sĩ cải lương tham gia tự vệ thành, chiến đấu ở chợ Đồng Xuân, bảo vệ đường phố Hà Nội như Sĩ Cát, Ngọc Dư, Tuấn Sửu… Số nghệ sĩ còn lại ở các đoàn cải lương chạy lên Sơn Tây, vào Thanh Hoá - Liên khu III. Cả nước hình thành hai trận tuyến văn hoá đối trọng, văn hoá nghệ thuật Nhà nước dân chủ nhân dân, văn hoá nô dịch thực dân xâm lược. Miền Nam sau ngày toàn quốc kháng chiến, nhiều ban hát cải lương tan rã, những ban cải lương Phước Cương, Huỳnh Kỳ, Nhạn trắng chạy loạn từ Nam Bộ, Sài Gòn ra Quy Nhơn, Vinh và tan rã ở các địa phương Hà Nội, Miền Trung. Số còn lại bám trụ trong lòng địch, biểu diễn kiếm sống chờ thời, nhiều nghệ sĩ như Ba Du, Tám Danh, Chi Lăng, Năm Nở… đi ra vùng kháng chiến cùng một số đoàn thành lập cải lương kháng chiến Nam Bộ. Sân khấu cải lương đang hưng thịnh phát triển đa phong cách nghệ thuật, bỗng chốc tan tác mỗi người một nơi sống trong gian khổ hy sinh. Những ban hát cải lương vùng tạm chiếm ít người xem, nhiều ban hát tan rã, hoặc thu nhỏ lại đàn ca tài tử… Trước tình thế bất ổn, nghệ thuật cải lương cả nước mất phương hướng hoạt động, các đoàn hát bắt đầu xây dựng lại đường lối nghệ thuật và khuynh hướng cải lương. Cuộc kháng chiến diễn ra ác liệt trên khắp chiến trường cả nước, tạo thành hai chiến tuyến có phần ổn định, bên kia chính quyền thực dân, bên này là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Mỗi bên có hậu cứ riêng là điều kiện xây dựng nếp sống, hưởng thụ văn hoá nghệ thuật. Sân khấu cải lương phát triển trở lại hình thành hai khuynh hướng nghệ thuật. Những đoàn cải lương của Nhà nước dân chủ, xây dựng nền nghệ thuật mới phục vụ nhân dân lao động, đây là bước ngoặt lịch sử sân khấu cải lương. Những đoàn cải lương dưới chế độ Pháp, phần lớn ở các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ… phát triển cải lương dân tộc, nhiều đoàn giữ được phẩm cách nghệ thuật, nhiều nghệ sĩ, tác giả tỏ lòng yêu nước, chống đối chế độ thực dân qua vở diễn. Nhưng có những đoàn, những nghệ sĩ do hoàn cảnh đem đến trở thành công cụ phục vụ chế độ xâm lược, diễn những vở cải lương xâm hại văn hoá nghệ thuật dân tộc. Tuy hình thành hai khuynh hướng cải lương, có những đặc điểm nội dung, hình thức khác nhau, tuỳ từng giai đoạn lịch sử, nhiều lúc gặp nhau trong tiếng nói chung cải lương dân tộc, góp phần xây dựng tình cảm con người Việt Nam. Đây là thành tựu cải lương dù dưới thể chế chính trị nào, nghệ thuật dân tộc hướng thiện là phẩm chất của cải lương. Những biểu hiện ấy là trách nhiệm lương tâm người nghệ sĩ, những nghệ sĩ chân chính, dũng cảm hy sinh vì nghệ thuật đã không sợ bạo lực, cường quyền, hướng nghệ thuật tới những điều tốt đẹp đến với chân lý thời đại.



Nghệ thuật cải lương giai đoạn kháng chiến, là thời cơ điều kiện đổi mới nghệ thuật, xây dựng nền văn hoá nghệ thuật, phục vụ nhân dân, người chiến sĩ với hệ giá trị mới trong sáng tác, biểu diễn sân khấu cải lương. Đó là điều kiện lịch sử phát triển cải lương Nam – Bắc – Trung, trên mọi miền đát nước.



1. Sự phát triển cải lương kháng chiến Nam Bộ



1.1. Sân khấu cải lương từ 1945 đến 1955.



Cải lương Nam Bộ, sau cuộc khủng hoảng tan rã năm 1945, bắt đầu xây dựng lại từ đầu trên hai trận tuyến cải lương, cải lương cách mạng kháng chiến, cải lương vùng tạm chiếm. Mỗi vùng có khuynh hướng cải lương riêng, phục vụ đối tượng công chúng và mục đích nghệ thuật khác nhau.Sân khấu cải lương cách mạng, kháng chiến có những tiêu chí đổi mới nghệ thuật cải lương. Nghệ thuật cải lương vùng tạm chiếm tuân theo sự kiểm duyệt của chế độ thực dân, bằng không sẽ giải tán hoặc tù đầy luôn chờ đón nghệ sĩ nào không khuất phục. Nhiều khó khăn thử thách người nghệ sĩ, nhưng mỗi nơi có hướng phát triển cải lương hợp quy luật nghệ thuật để tồn tại.



Những đoàn cải lương vùng kháng chiến lúc đầu chưa tập hợp được các diễn viên để diễn cải lương, mặt khác còn bị cấm ca cải lương sau Hội nghị Văn hoá Việt Nam lần thứ hai, năm 1948 tại căn cứ Việt Bắc. Nhiều diễn viên cải lương ca hát vụng trộm bài Vọng cổ, ước mong sao có ngày ca diễn, đến năm 1950 cải lương được phục hồi vùng kháng chiến Nam Bộ. Phong trào sân khấu Nam Bộ hoạt động mạnh, năm 1950 thành lập chi hội văn nghệ Nam Bộ, những nghệ sĩ của hội đầu tiên: Nguyễn Ngọc Bạch, Phan Vũ, Chi Lăng, Trương Bỉnh Tòng, Quách Vũ... Tại Sài Gòn thành lập Hội Nghệ sĩ ái hữu, tập hợp nhiều nghệ sĩ uy tín: Phùng Há, Năm Phỉ, Trần Hữu Trang, Năm Châu... Hai hội nghệ sĩ đại diện cho hai vùng, Nam Bộ chỉ đạo hoạt động sân khấu, hướng theo cách mạng kháng chiến.



Năm 1951, cải lương Đoàn Cửu Long Giang – Quân khu IX dựng vở Trần Hưng Đạo bình vương của Trần Bạch Đằng. Đoàn có các diễn viên: Thanh Hương, Văn Khởi, Nguyễn Sơn, Ngọc Bạch, Can Trường, Phi Nga... cùng sinh hoạt có nhóm tác giả: Chi Lăng, Trương Bỉnh Tòng, Ngọc Cung, Nguyễn Ngọc Bạch, Phan Vũ, Quách Vũ...



Đoàn Cửu Long Giang, đại diện tiêu biểu cho lực lượng cải lương kháng chiến Nam Bộ, tập hợp lớp nghệ sĩ nổi tiếng, tác giả trẻ tuổi viết vở. Đoàn đã dựng nhiều vở cải lương lịch sử và kháng chiến. Những vở tiêu biểu: Trần Hưng Đạo bình vương - Trần Bạch Đằng, Huyết lệ thù, Chi Lăng, Bạch Mao Nữ... của Trương Bỉnh Tòng.



Quân khu VII, nhóm cải lương diễn vở: Vệ Quốc chiến của Thiếu Linh, diễn viên: Ba Du, Tư Xe, Tám Danh, Thanh Hương, Thanh Loan... Cải lương kháng chiến vùng giải phóng Nam Bộ có hai đoàn với nhiều diễn viên nổi tiếng của Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ đi theo cách mạng như: Ba Du, Tám Danh, Mộng Vân, Ngọc Thạch, Bảy Vân, Thanh Hương, Thanh Loan, Tư Xe, Ba Thừa, Chín Châu, Bích Lâm, Thiếu Linh, Nguyễn Ngọc Bạch, Tường Trâm, Can Trường, Phi Nga... Hai đoàn cải lương kháng chiến có đội ngũ tác giả khá đông và tên tuổi: Trần Bạch Đằng, Chi Lăng, Phạm Ngọc Truyền, Trương Bỉnh Tòng, Phan Vũ, Ngô Y Linh, Nguyễn Phương, Thiếu Linh... Đạo diễn thường do diễn viên lâu năm hoặc tác giả dựng, nhưng có hai đạo diễn chính dựng vở: Vũ Hoàng, Thanh Hương...



Hoạt động cải lương kháng chiến Nam Bộ, sau năm 1950 phát triển mạnh đem đến cái mới về nghệ thuật ca diễn, nhiều vở diễn nói về tinh thần thi đua yêu nước, kháng chiến chống Pháp. So với cải lương ngày Pháp tạm chiếm, đây là sự đổi mới sân khấu cải lương, những vở cải lương đương đại được công chúng hào hứng đón nhận. Hai hội văn nghệ: Hội ái hữu và Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, hoạt động khích lệ giới cải lương. Năm 1950 trao giả thưởng của Chi hội Văn nghệ cho vở cải lương Trần Hưng Đạo bình vương, động viên các tác giả sáng tác cho đoàn. Cải lương vùng kháng chiến có những vở: Trần Hưng Đạo bình vương, Người mặt cháy, Hai bó rơm, Anh Chị ăn mày, Huyết lệ thù, Bạch Mao Nữ, Kiều Nguyệt Nga, Thái Hậu Dương Vân Nga, Nàng tiên mẫu Đơn, Dệt gấm... Năm 1951, Chi hội Văn nghệ kháng chiến Nam Bộ lại trao giải cho vở Hai bó rơm của Ngọc Cung, càng động viên mạnh mẽ tác giả, diễn viên cải lương đi vào đề tài cách mạng, kháng chiến.



Hai đoàn nghệ thuật cải lương: Cửu Long Giang khu IX, Đoàn cải lương khu VII, hoạt động khắp các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, diễn phục vụ dân công, bộ đội và nhân dân vùng tự do (vùng chính quyền cách mạng). Các đoàn được công chúng hâm mộ, những vở diễn của đoàn góp phần phần động viên nhân dân vùng kháng chiến, động viên nhân dân đánh giặc, giải phóng quê hương, xây dựng cuộc sống mới. Hai đoàn cải lương kháng chiến đại diện cho sân khấu cải lương cách mạng, ngoài việc diễn cải lương đoàn còn diễn kịch nói phục vụ nhân dân, bộ đội, dân công. Đội ngũ tác giả, diễn viên của đoàn đại diện cho sân khấu cách mạng đem đến công chúng nhịp sống mới, sân khấu nghệ thuật cách mạng. Nhiều vở diễn đi sâu phản ánh cuộc kháng chiến, đặt niềm tin chiến thắng, đổi mới nghệ thuật diễn, âm nhạc, mỹ thuật... phản ánh con người kháng chiến anh bộ đội, chị dân công và nhân dân lao động.



1.2 Nghệ thuật diễn.



Cải lương vùng kháng chiến Nam Bộ, đến với công chúng lao động, người nông dân, anh bộ đội, chị dân công... biểu diễn nhiều vở nói về cuộc sống con người mới. Cải lương kháng chiến đổi mới nội dung vở diễn, nghệ thuật diễn.



Những hình thức diễn mới có phần hấp dẫn công chúng lôi cuốn khán giả vùng cận chiến đến xem,bởi cải lương nói về những chuyện đời thường của lớp người mới. Sân khấu kháng chiến đơn sơ, nghèo nàn, giới hạn không gian bằng cái phông trời, ánh sáng đèn bão, đèn măng sông. Nếu diễn ban ngày còn đơn sơ hơn nhiều, bù lại bằng lối ca diễn chân thành lành mạnh, khí thế. Trong lúc cải lương nội đô còn chìm đắm trong lối ca diễn sướt mướt, cải lương kháng chiến đem đến công chúng tình cảm thật, lối ca diễn chân thực, ca bài ca cách mạng kháng chiến làm thay đổi nghệ thuật cải lương. Nhiều nghệ sĩ đi sâu lối diễn cải lương nội tâm, nhập vai xúc cảm, chân thực. Các diễn viên: Văn Khởi vai Trần Hưng Đạo, Can Trường, Nguyễn Sơn vai Trần Bình Trọng, Nguyễn Ngọc Bạch, Văn Phước vai Thoát Hoan, Thanh Hương, Hà Vân vai công chúa... Mỗi vai diễn giản dị xúc động đem đến công chúng hào khí lịch sử, làm sống lại tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ Nhà Trần. Sau vở Trần Hưng Đạo, vở Hai bó rơm, nói về cuộc chiến đấu của người cách mạng ở nông thôn Nam Bộ, bắt đầu cuộc chiến tranh du kích. Sự khái quát một mảng hiện thực kháng chiến, các diễn viên diễn chân thực làm công chúng say mê, không còn giới hạn giữa sân khấu và khán giả. Người xem và nhân vật hoà đồng, vì sự gần gũi chân thực ấy, diễn viên Can Trường trong vai địa chủ hãm hiếp Bạch Mao Nữ, bị ném đá, còn nhiều người căm thù ông. Đó là hiệu quả nghệ thuật diễn chân thực, xúc động. Các diễn viên nhập vai bằng nghệ thuật diễn bình dị, công chúng trực tiếp với sân khấu. Những cái mới của nghệ thuật cải lương kháng chiến, động tác diễn ngôn ngữ hành động chân thật, ca trong sáng lành mạnh. Những mâu thuẫn xung đột kịch có hành động diễn như người thật việc thực chinh phục công chúng. Cải lương kháng chiến bước đầu thành công nghệ thuật diễn, có đội ngũ diễn viên ngôi sao, nhiều vở diễn về các loại đề tài. Các diễn viên nhanh chóng đổi mới nghệ thuật diễn:



- Diễn chân thực bình dị

- Diễn nội tâm giao lưu cùng khán giả

- Sân khấu diễn về cuộc sống mới.



Nghệ thuật diễn mới của cải lương kháng chiến mở ra hướng cải lương hiện thực cách mạng, kháng chiến. Những nghệ sĩ diễn viên cải lương kháng chiến Nam Bộ, đặt nền móng cải lương cách mạng có ba đoàn: Cải lương Cửu Long Giang, cải lương Quân khu VII và Đoàn cải lương Nam Bộ. Đay là lực lượng cải lương kháng chiến Nam Bộ có hàng loạt vở mới, đáp ứng lớp người kháng chiến.



1.3Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc.



Âm nhạc cải lương kháng chiến bắt đầu từ dòng cải lương yêu nước những năm 30, tiếp tục ca cải lương lành mạnh, trong sáng, nên cao tinh thần chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, xây dựng quê hương mới. Đây là sự khác biệt giữa cải lương vùng tạm chiếm với cải lương kháng chiến. Ca nhạc cải lương kháng chiến có hai trạng thái tình cảm âm nhạc trong ca diễn, đạt hiệu quả tình cảm thẩm mỹ âm nhạc dân tộc trong sáng, lạc quan.



Âm nhạc các vở cải lương lịch sử, dân gian huyền thoại như Trần Hưng Đạo bình vương, Thái Hậu Dương Vân Nga, Kiều Nguyệt Nga, Lê Lợi khởi Nghĩa, Tống Trần Cúc Hoa... Ca diễn ngọt mùi, trong sáng, không vàng vọt õng ẹo, sướt mướt, ngọt mùi, không bi lụy, tang thương... Những làn điệu ca bài bản cổ đem đến công chúng chất âm nhạc cổ điển Việt Nam, thanh cao, mạnh mẽ. Vào thời gian từ năm 1948 cuối năm 1950, bài Vọng cổ bị cấm ca diễn trong các vở cải lương vùng kháng chiến Nam Bộ. Vì thế, ông Tố Hữu tổ chức cuộc họp chuyên đề về cải lương tháng 9 – 1950, sau đó cải lương mới được phục hồi. Nên cải lương kháng chiến có điều kiện vứt bỏ những hình thức ca diễn cũ, tạo dựng hình thức ca nhạc mới. Ca bài bản cổ ca đúng tình cảm, thẩm mỹ bài bản, không vàng vọt lai căng. Ca bài bản mới trong sáng lành mạnh, mang hơi thở con người nhịp sống cách mạng kháng chiến. Đó là tiêu chí ca nhạc cải lương đạt được, ca chân thực với tình cảm nhân vật và bài bản cải lương, đó là bước chuyển mới ca nhạc cải lương kháng chiến khác với ca nhạc cải lương vùng tạm chiếm lại quay về lối ca uỷ mỵ, sướt mướt, lai căng, ca cải lương nhạc Tầu, nhạc Tây... Ca nhạc buồn thương tan nát để câu khách, về mặt nào đó đây là chỗ mạnh cải lương đánh vào tâm lý con người tình cảm mềm yếu. Nhưng đây lại là điểm yếu nhất của ca nhạc cải lương, thời nào cải lương thường sa đề vào lối ca bi luỵ, tang tóc, lấy nước mắt mủi lòng của công chúng. Vì những hạn chế ấy, ca nhạc cải lương kháng chiến ca trong sáng, lành mạnh, như một cuộc cách mạng đổi mới kỹ thuật ca, chủ yếu là ca Vọng cổ và cả nghệ thuật cải lương, không dễ gì để có được hình thức ca cải lương trong sáng, ngọt mùi. Thời chiến, sinh hoạt khá nghiêm ngặt, không ít những cuộc họp kiểm điểm một số văn nghệ sĩ khiến họ theo cách mạng rồi thấy cuộc sống khó khăn gian khổ, lại có phần căng thẳng tinh thần, không ít người đã từ bỏ đội ngũ về thành. Những nghệ sĩ đi theo kháng chiến là những người trung kiên lắm: không sợ gian khổ, hy sinh, biết chịu đựng những cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân, kiểm điểm, phê phán, quy xét chụp mũ tư sản, phong kiến, Việt gian... Vì những hình thức đấu tranh phê bình khắc nghiệt ấy, ca nhạc cải lương lại giữ được chất nhạc anh hùng ca, trong sáng trữ tình, đúng bản chất thẩm mỹ ca nhạc cải lương dân tộc bản địa. Ca nhạc cải lương có bốn đặc tính:



- Hùng tráng

- Trữ tình

- Bi ai

- Cái hài



Nhưng khi ca vào vở diễn hầu hết các nghệ sĩ chỉ phát triển hai đặc tính cái bi lên hàng đầu, sau đó là trữ tình và bi, nên nghe cải lương ảo não sốt ruột.



Vì những lý do ấy, lúc đầu cải lương bị cấm, dù có những hình thức đấu tranh găy gắt, nhưng không ít nghệ sĩ cải lương đi theo kháng chiến còn ca diễn sướt mướt, ca pha Quảng... Nhưng những hình thức bi thảm, lai căng rất ít, nên ca nhạc cải lương thực sự đổi mới, lấy lại giá trị thẩm mỹ bài bản cải lương. Ca nhạc cải lương kháng chiến đổi mới kỹ thuật ca:



- Chân thực hiện thực

- Ca đúng tình cảm bài bản.



Những nghệ sĩ: Ba Du, Tám Danh, Thanh Hương, Ngọc Bạch, Phi Nga, Tường Trân, Văn Phước, Trần Lâm, Thanh Loan... đã đổi mới ca nhạc cải lương kháng chiến cùng nhiều nghệ sĩ, diễn viên xây dựng nghệ thuật cải lương mới.



b. Mỹ thuật.



Mỹ thuật kháng chiến hết sức nghèo nàn, các đoàn cải lương không có hoạ sĩ, nhiều vở diễn không có trang trí, thường treo phông hậu nền trắng, cách gà vải nâu, hoặc xanh... Đó là giới hạn sân khấu và khán giả, nhưng sân khấu ngoài trời thì cái giới hạn ấy chỉ là tượng trưng sân khấu và người xem.

Do những khó khăn ấy, mỹ thuật ít có trang trí, nên diễn những vở cũ lấy cảnh cũ treo lên, chỉ thay cảnh rất ít, không lộng lẫy nhưng không quá sơ sài. Những vở đương đại, có hai hình thức, một là vẽ ước lệ hai đống rơm, căn nhà lá, hai là không trang trí cứ diễn mộc như kể câu chuyện có thật. Ngoài ra có một số vở kết hợp vẽ tả thực với cảnh thực đưa lên sân khấu, một cảnh có thể diễn qua nhiều màn. Mỗi vở diễn không thay đổi cảnh trí nhiều, trang trí sân khấu kháng chiến thường thấy:



Ước lệ

Tượng trưng



Hai hình thức này đơn giản phù hợp với điều kiện kháng chiến, đáp ứng sân khấu vùng tự do. Nghệ thuật theo sát hiện thực, ca diễn , mỹ thuật phù hợp thực tiễn sân khấu. Phục trang những vở cổ mặc như những vở trước đã có, các tướng văn võ theo cải lương cổ, không thay đổi,các tướng mặc giống nhau. Các đào cũng tương tự, phục trang theo các mẫu nhân vật có sẵn, quan trọng là sử dụng đúng chỗ từng nhân vật. Còn những vở cải lương đương đại nói về người dân công, bộ đội, trang phục như những mốt con người ở ngoài đời. Cô gái Nam Bộ quần áo bà ba, khăn rằn, tóc dài, cặp ba lá... Những mẫu người ấy khá hấp dẫn, người nông dân Nam Bộ gần gũi như lão nông, chân chất, hồn nhiên. Những hình thức phục trang ấy, đưa sân khấu cải lương kháng chiến đến với đời sống hiện thực, công chúng cảm nhận xúc động. Sân khấu kháng chiến đơn giản, không hào nhoáng mầu mè, gần gũi công chúng, đây là sự đổi mới cải lương cách mạng được công chúng yêu thích. Sân khấu cải lương Nam Bộ, giai đoạn đầu cách mạng kháng chiến đã thành công là sân khấu dân tộc, đại chúng.



2.Cải lương kháng chiến giai đoạn 1955 – 1965



2.1 Các đoàn cải lương Mặt trận Dân tộc giải phóng.



Bước đầu xây dựng căn cứ kháng chiến, cải lương Nam Bộ thành công theo hướng đổi mới nghệ thuật cách mạng, phản ánh hiện thực cuộc sống mới. Cải lương kháng chiến đã kiện toàn: đội ngũ tác giả, tác phẩm, đội ngũ diễn viên cải lương, đổi mới nghệ thuật diễn. Tại Nam Bộ vùng kháng chiến có hai đoàn cải lương, diễn viên thành công hai hướng cải lương, những vở cổ, những vở cải lương đương đại. Sân khấu cải lương kháng chiến, ổn định phát triển tiếp tục phục vụ nhân dân, anh bộ đội đến ngày kháng chiến thắng lợi.



Cải lương kháng chiến tiếp tục phát huy thắng lợi đạt được, nhiều tỉnh có bộ phận cải lương trong đội tuyên truyền kháng chiến tỉnh huyện,... Tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh... Mỗi tỉnh có một đội cải lương, Khme, Việt, Chăm... Sau năm 1955, các đoàn cải lương vùng kháng chiến có biến động lớn, đoàn Cửu Long Giang, Quân khu IX, đoàn Văn công Đồng Tháp mười... giải tán, nhiều nghệ sĩ tập kết ra Bắc, số còn lại về địa phương đến năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng ra đời, các đoàn văn công thành lập lại biểu diễn phục vụ bộ đội giải phóng. Năm 1961, một số đoàn cải lương ra đời nằm trong đội tuyên văn của tỉnh, các đội vừa sản xuất, biểu diễn, tuyên truyền đường lối mặt trận trong nhân dân. Ngày ấy, nhân dân sống dưới luật 10 – 59, hết sức khắc nghiệt, chính quyền Sài Gòn ban hành luật hoạt động văn hoá nghệ thuật. Tất cả các ban hát dưới sự kiểm soát của Bộ Thông tin Sài Gòn, trực thuộc thành phố. Bộ máy chính quyền Sài Gòn phân cấp quản lý tập chung, mỗi vở diễn của mỗi đoàn muốn công diễn phải có giấy phép: giấy phép dựng vở, giấy phép công diễn vở mới. Các Ty Thông tin chỉ có quyền theo dõi, kiểm tra giấy phép khi các đoàn trong tỉnh có hoạt động biểu diễn. Chính quyền Sài Gòn đề ra các loại thuế cụ thể, các đoàn, các ca sĩ không thể trốn thuế, bằng cách thu trực tiếp các loại phải nộp ngay khi cấp giấy phép. Thuế quảng cáo, thuế vui chơi giải trí, thuế lợi nhuận, ngày nay người ta gọi là thuế giá trị gia tăng. Thuế vui chơi, giải trí bao gồm các hình thức hoạt động vui chơi, riêng về biểu diễn nghệ thuật đánh trực tiếp vào từng vé bán ra ở Ty Tài chính bao nhiêu vé nộp bấy nhiêu phần trăm. Thuế lợi tức thu vào các bầu chủ, các diễn viên có catse cao, mọi người phải tự giác nộp dưới sự giám sát chặt chẽ của các ban ngành liên quan, thu thuế ngay tại gốc. Bằng phương thức quản lý nghiêm nhặt ấy, những ban hát nào diễn không có phép bị xử theo luật.



Trước tình hình ấy, sân khấu cải lương từ năm 1955 đến năm 1960, chưa có tổ chức hoạt động, từ năm 1961 – 1962 có các đoàn hoạt động diễn cải lương, kịch nói, ca nhạc, ở các vùng do mặt trận Dân tộc kiểm soát.



Năm 1962, đoàn cải lương Đồng Nai ra đời tên là đoàn Văn công Giải phóng khu uỷ Miền Đông Nam Bộ, đoàn ra đời có hai nhiệm vụ: biểu diễn phục vụ và chiến đấu trên toàn bộ chiến trường Miền Đông. Đoàn có nhiều diễn viên hy sinh trong cuộc chiến, và những đêm diễn phục vụ đội đặc công rừng Sác tiếp sức cho các chiến sĩ lập công. Đoàn diễn các vở: Võ Thị Sáu, Đâu có giặc là ta cứ đi, Mùa xuân... Đoàn Văn công Đồng Tháp thành lập tháng 3 – 1960, tại căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười, nhiệm vụ biểu diễn, chiến đấu, sản xuất. Những vở diễn đầu tiên: Chiếc máy đuôi tôm... Diễn viên mười lăm người có những nghệ sĩ Sài Gòn cũ: Minh Thành, Thanh Tùng, Ngọc ánh, Thu Nguyệt... Những diễn viên này là hạng sao của nhiều ban hát Sài Gòn những năm 40 đã vào đoàn cải lương Đồng Tháp. Nghệ thuật diễn của đoàn khá hấp dẫn, được công chúng hâm mộ.



Đoàn cải lương Tân Thành thành lập tháng 9 – 1960, tại Tây Ninh gọi là Đoàn Văn công Tây Ninh. Diễn viên đầu tiên: Hai Thọ, Tài Linh, út Nghiêm... Đoàn diễn những trích đoạn, hoạt cảnh cải lương phục vụ nhân dân, bộ đội giải phóng.



Đoàn cải lương Long An, thành lập tháng 9 – 1960, có một số diễn viên từ các ban hát cũ ở tỉnh vào đoàn. Đoàn diễn một số vở như: Hai bó rơm, Rùa và thỏ, Võ Thị Sáu...



Đoàn cải lương nhân dân Kiên Giang, xưa là Đoàn Văn công giải phóng ra đời năm 1960, diễn viên: Hồ Châu, Tư Đại, Chí Trần, Tám Được, Cẩm Linh diễn các vở Máu thắm đông Nọc Nạn, Võ Thị Sáu của Phạm Ngọc Truyền, Kiếp làm dâu của Hoàng nghệ... Đoàn lưu diễn ở các vùng ven tỉnh thuộc khu giải phóng kiểm soát, nhiều diễn viên dũng cảm diễn dưới làn bom dận giặc. Số diễn viên trên đến năm 1976, chuyển nghành không tham diễn cải lương.



Đoàn cải lương Cửu long thành lập năm 1960, xưa là Đoàn Văn công ánh Hồng – Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Diễn viên có: Hồng Thắm, Tư Trần, Năm Trinh... Đoàn biểu diễn dọc miền duyên hải Trà vinh, phục vụ nhân dân, bộ đội.Diễn các vở: Mùa xuân - Đất nước của Nguyễn Vũ (Chuyển thể cải lương), Cờ giải phóng... Đoàn cải lương Bến Tre, ra đời tháng 5 – 1962, tại xã Thanh Phong, huyện Thạch Phú, tỉnh Bến Tre. Các diễn viên: 15 người. Đoàn diễn các vở: Em bé Tân Thanh, Tỉnh cơn ác mộng của Minh Thuỳ năm 1962 – 1963, Trăng lên khỏi núi của Phan Thế – 1964 phục vụ nhân dân và bộ đội giải phóng.



Bến Tre là tỉnh đầu tiên nổi dạy, đồng khởi dành chính quyền về tay nhân dân năm 1960, nhưng sau hai năm mới xuất hiện đoàn cải lương. Một số tỉnh đến năm 1963, hoặc 69 – 70 mới có đoàn cải lương, như vậy các đoàn trưởng cho rằng tỉnh mình ra đời cải lương từ năm 1960, liệu có nhầm không? Nhưng dù sớm hay muộn, sau ngày Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam ra đời, các tỉnh Đồng Bằng Nam Bộ xuất hiện nhiều đoàn cải lương kháng chiến. Thông thường mỗi tỉnh có một đoàn, một số tỉnh có hai đoàn, gọi là đoàn cải lương, nhưng không phải là đoàn độc lập, các đoàn biên chế trong đoàn Văn công gồm ca múa nhạc, kịch, cải lương. Mỗi bộ phận chuyên môn đi diễn thành các mũi xung kích riêng, thậm chí chia nhỏ diễn cải lương ca nhạc, hoặc ca – kịch – cải lương... Một số tỉnh có đoàn cải lương riêng, còn đa phần là các đoàn Văn công tổng hợp ca múa nhạc – kịch – cải lương.



Dưới Đồng Bằng Nam Bộ có 12 đoàn cải lương, Liên khu Sài Gòn, Gia Định có hai đoàn Văn công: T 4, Văn công giải phóng... Tổng số các đoàn cải lương kháng chiến toàn Nam Bộ là 14 đoàn. Các đoàn cải lương có đội ngũ tác giả: Trương Bỉnh Tòng (Hoài Linh), Phạm Ngọc Truyền, Phạm Trần, Phi Hùng, Kim Thạch, Mai Quân, Thanh Tuyền, Thanh Nha, Kinh Lăng, Bẩy Vân, Bích Lâm, Anh Phong, Xuân Phong, Ngọc Cung Liên Tâm, Ngô Y Linh( Kịch nói), Nghuyễn Vũ (Kịch nói)... Hai tác giả này có một số vở kịch chuyển thể sang cải lương, tính vào đội ngũ tác giả sân khấu kháng chiến Nam Bộ.



Các đoàn cải lương kháng chiến Nam Bộ có đội ngũ diễn viên tên tuổi, nhiều nghệ sĩ nổi tiếng từ các ban hát cải lương cũ đi theo kháng chiến như: Bẩy Vân, Tám Củi, Thanh Hương, Bích Lâm, Chín Châu, Thanh Loan, Kim Cúc, Mỹ Ngọc, Kim Anh, Kim Chi, Cẩm Linh, Tám Được, Chí Trần, Tám Thạnh, Hai út, Mười Hạnh, Hai Bông, Ba Lan, Hồng Thắm, Năm Trinh, Tư Trần, Hai Thọ, út Nghiêm, Tài Linh, Minh Thành, Thanh Tùng, Ngọc ánh, Thu Nguyệt... Số diễn viên công chúng yêu thích, có tên tuổi 40 người, đó là vị trí quan trọng được công chúng yêu thích cải lương kháng chiến Nam Bộ.



2.2. Nghệ thuật diễn.



Văn nghệ cải lương giai đoạn này vững mạnh về nghề, các diễn viên diễn chân thực, ca diễn đúng tình cảm vở diễn, dù là cải lương tuồng cổ hoặc cải lương đương đại. Mỗi nghệ sĩ nắm vững nghệ thuât diễn, đây là bước ngoặt lịch sử cải lương kháng chiến, nghệ thuật diễn cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những thành công bước đầu đổi mới nghệ thuật diễn có nhiều nguyên nhân từ phía vở diễn mới, thực tiễn mới mà người nghệ sĩ trải nghiệm trên chiến trường, mặt khác sự góp mặt nhiều tác giả, đạo diễn, diễn viên cải lương Bắc bổ xung vào chiến trường đem đến sự đổi mới nghệ thuật cải lương.



Nhệ thuật diễn đổi mới, từ đội ngũ diễn viên bản lĩnh nghề nghiệp, tiếp thu lý luận, thực tiễn nghệ thuật diễn hiện thực xã hội chủ nghĩa dẫn đến đổi mới cải lương. Nhưng sân khấu kháng chiến lại hết sức khó khăn, nghèo nàn, đây là mâu thuẫn giữa nghệ thuật biểu diễn với hình thức sân khấu. Sân khấu dã chiến, mấy năm đầu nhiều đoàn cải lương không có máy điện, chỉ diễn bằng đèn măng sông, đèn bão, những đoàn có máy phát điện nhiều khi không dám thắp sáng vì sợ máy bay, sợ bên kia pháo kích... Nhưng từ năm 1965, gần hết các đoàn cải lương có máy phát điện, diễn ở chiến trường có máy điện, nhưng nhiều đoàn chỉ có hai micrô, một treo lên để ca diễn, một đứng dưới dàn nhạc. Một số đoàn từ Bắc vào như Văn công Nam Bộ, Văn công Trường Sơn, hoặc Văn công tổng hợp Tây Ninh, Văn công đường IX... có máy nổ to, có dàn micrô, bốn cái nhiều nhất là sáu cái. Những đoàn ca múa tổng hợp chính quy mới có trang bị mạnh, còn các đoàn cải lương chỉ có hai micro, ánh sáng hai đèn, hoặc bốn đèn cho dàn nhạc và sân khấu. Mỗi khi chuyển cảnh có tắt đèn, hoặc lấy giấy bóng màu bịt vào bóng đèn chiếu lên màu vàng, màu xanh, màu tím, màu đỏ... Biểu diễn dã chiến lâu ngày rách hết giấy màu chỉ còn một màu sáng trắng chiếu lên sân khấu cùng với cái phông trời trắng. Sự nghèo nàn của sân khấu kháng chiến trang bị âm thanh, ánh sáng và cảnh trí không hấp dẫn, nhưng sân khấu kháng chiến rất hấp dẫn bộ đội giải phóng, nhân dân vùng địch hậu và vùng giải phóng vì sự mới lạ. Mới lạ vở diễn mới, nhiêù vở nói về cuộc sống, chiến đấu, sự đổi đời như các vở: Cờ giải phóng, Chiếc máy đuôi tôm, Võ Thị Sáu, Máu thắm đồng Nọc Nạn, Hòn Đất, Cánh chim soi gương, Cây sầu riêng trổ bông (Trương Bỉnh Tòng), Bên rào ấp chiến lược, Rừng cao su, nhuộm máu – Mai Quân, Đánh tàu chiến – Anh Phong. Nói về nghệ thuật diễn các diễn viên diễn chân thực, bình dị, nhưng xúc cảm như người thật, việc thật, tự nhiên như cuộc sống, chiến đấu của nhân dân đang diễn ra ngay trên sàn diễn hay trên mảnh đất này làm bao người phải rơi nứơc mắt. Nghệ thuật diễn chân thật, sống thực với hoàn cảnh sân khấu bằng cảm xúc thực người diễn viên đã trải nghiệm, thì những cảnh nghèo nàn không màu mè hào nhoáng nhung lụa của sân khấu kháng chiến lại hấp dẫn hơn bao giờ hết, có phần hợp với hiện thực vở diễn. Trong khó khăn nghèo nàn ấy, thậm chí có nơi diễn bằng lời ca tiếng nói tự nhiên không qua micrô, lại hấp dẫn công chúng như họ thấy đó là cuộc đời thực. Nhớ lại những năm tháng Trường Sơn tôi thổi sáo đệm cho nghệ sĩ Tường Thụ ngâm thơ, độc tấu sáo cho thương binh nghe giữa rừng săng lẻ trong bộ quân phục giải phóng đỏ bụi đường, đồng bào dân tộc và bộ đội ngồi, đứng xem rất cảm động. Cuộc biểu diễn nào cũng đầy nước mắt, đây là sự thành công của người diễn viên biểu diễn với nhiệt tình chân thực. Những diễn viên cải lương không nằm ngoài sự tự nhiên chân thực ấy, khi mỗi diễn viên vào vai diễn chỉ có mình tự nhập vai diễn với công chúng, sự hỗ trợ phối cảnh rất ít. Sự nghèo nàn ấy lại tăng thêm tính hiện thực vở diễn, háp dẫn công chúng bằng tình cảm tự nhiên. Đó là một thời đã qua, ngày nay không thể coi đó là nghệ thuật hôm nay, nhưng có một thời chân thật, ngây ngô như thế, sân khấu cải lương kháng chiến đã chiếm lĩnh công chúng bằng nghệ thuật diễn chân thực nghèo nàn. Các diễn viên diễn hết mình bằng cảm xúc:



Chân thực, tự nhiên, đối thoại cùng công chúng

Nghệ thuật diễn hiện thực xã hội chủ nghĩa



Đó là quá trình đổi mới sân khấu cải lương kháng chiến Nam Bộ, đưa nghệ thuật đến công chúng bằng tình cảm chân thực từ hiện thực đời sống cách mạng. Những tiến bộ ấy, là đổi mới nghệ thuật ca diễn và trang trí, phục trang mỹ thuật sân khấu cải lương vùng giải phóng Nam Bộ.



2.3. Âm nhạc, mỹ thuật.

a. Âm nhạc



Sân khấu nghèo nàn, âm nhạc đơn sơ, mỗi đoàn cải lương có hai, ba nhạc công, đàn bầu, nhị, ghi ta lõm, hoặc ghi ta thường... dàn nhạc cọc cạch, ít đoàn có đủ đàn nhạc tam tứ, lục tài tử cải lương. Nhạc cụ đánh chung quanh một chiếc micrô đứng, âm nhạc lúc to, lúc nhỏ, chỉ nghe thấy đàn bầu, hoặc đàn nhị... cứ như cả dàn nhạc chỉ có một nhạc cụ độc tấu. Nhưng công chúng vẫn lắng nghe không tiếng rì rầm, nhiều khi người diễn còn nghe thấy tiếng thở của mình, công chúng im lặng lắng nghe.



Âm nhạc thường đệm theo làn điệu bài bản ít có nhạc phối khí, sáng tác mới, trừ những buổi biểu diễn chính quy phục vụ cả đại đội hoặc đồng bào cả xã mừng chiến thắng mới có đủ âm thanh áng sáng, cảnh trí và dàn nhạc đệm cho ca. Còn diễn xung kích, đôi khi chỉ có một hai nhạc cụ đệm theo ca diễn, chẳng có cao trào, chuyển cảnh... Công chúng lắng nghe bồi hồi, người diễn viên ca chân thực ngọt ngào, nói lời thoại hồn nhiên như cuộc đời bởi không có sân khấu hào nhoáng lấy đâu sự cường điệu khoa trương, các diễn viên chỉ có giọng ca xúc cảm ngọt mùi, với tiếng đàn bầu, hoặc ghi ta đệm theo hốt vào những chỗ nghỉ của lời ca. Đó là những điểm nhấn của người đàn, người xem khâm phục biết tay đàn giỏi, biết người ca hay, những sự mộc mạc hay hồn nhiên ấy là thành công của ca nhạc cải lương kháng chiến. Tuy nhiên, nhiều đoàn cải lương có những danh cầm nổi tiếng như: Mười Đờn, Thanh Hùng, Sáu Chí, Mỹ Ngọc, Ngọc Hoa,... thường hoà tấu theo bài bản, những đoạn chuyển cảnh, cao trào có hai hình thức: một là hoà tấu các nhạc cụ bằng giai điệu bài bản, hai là lấy những đoạn nhạc quen thuộc hoà tấu. Một số vở mới có sáng tác tại chỗ, hoặc của các nhạc sĩ đã viết trước đưa vào vở diễn. Phần ca khúc mới, thường lấy những bài ca khúc nổi tiếng như một đoạn bài Gải phóng miền nam đưa vào kết vở, hoặc bài Khúc quân hành hát mở màn, hay kết thúc, hoặc giữa vở... Tuỳ hoàn cảnh mỗi vở chọn nhạc và bài hát phù hợp đưa vào vở diễn. Tuy là chọn nhạc, hoặc hoà tấu bài bản, nhưng đã tạo ra những lớp khí nhạc, những ca khúc đúng hoàn cảnh vở diễn, nghe nhạc và xem diễn có không khí thời sự xúc động, nóng bỏng hơi thở cuộc sống chiến đấu, đầy khí thế quật khởi. Sân khấu đơn sơ, âm nhạc đơn sơ, khó khăn, nghèo nàn, nhưng diễn viên diễn xúc động, nhạc công hoà tấu nhập hồn giai điệu say mê từng một nhạc diễn tấu hết mình, tạo tình cảm mới cho ca nhạc cải lương. Đó là âm nhạc: lạc quan, trong sáng, vui tươi đầy không khí chiến trường, đây là chất âm nhạc mới của sân khấu cải lương kháng chiến. Âm nhạc sân khấu cải lương kháng chiến diễn tả hiện thực cuộc sống mới của nhân dân vùng giải phóng, anh bộ đội, chị thanh niên xung phong... mang bầu không khí hừng hực tinh thần chiến đấu chiến thắng của lớp người mới. Đây là sự khác biệt giữa ca nhạc cải lương kháng chiến với ca nhạc vùng tạm chiếm. Ca nhạc cải lương mang lại bầu không khí:



Vui tươi, lạc quan trong sáng, lành mạnh

Biểu diễn hoà tấu dàn nhạc chân thực, mang không khí mới.



Ca nhạc cải lương còn nhiều hạn chế, thiếu những nhạc công tài hoa,

chỉ có sự diễn cảm chân thành, kỹ thuật không cao nhưng bù lại bằng tình cảm cảm xúc cảm mới của các nhạc công, nhạc sĩ đem đến ca nhạc cải lương bầu không khí mới. Ca nhạc của người kháng chiến lạc quan, chiến thắng, trong sáng lành mạnh, là giá trị thẩm mỹ ca nhạc cải lương sân khấu mới.



B. Mỹ thuật.



Mỹ thuật cải lương nghèo nàn như sân khấu vốn có, trang trí hết sức hạn chế, có hai ba hoạ sĩ Hữu Đức, Thế Quyền... vẽ cho các đoàn Văn công giải phóng. Các hoạ sĩ phải làm nhiều việc vẽ tranh biếm hoạ, thiết kế các trang báo, vẽ quảng cáo, trang trí sân khấu... chỉ ít đoàn có hoạ sĩ.



Mỹ thuật cải lương kháng chiến chắp vá, nhiều vở diễn nổi tiếng như Hát bên bờ rào ấp chiến lược của Anh Phong chỉ có mấy cảnh tượng trưng hàng rào, tháp canh, cứ chuyển qua chuyển lại, hoặc vở Cánh chim soi gương của Hoài Linh, cảnh trí chỉ có rừng, dòng suối... Cảnh trí ít, vẽ trên vải, đôi vở có bục bệ, nhưng bục bệ rất nhỏ, như vở Đâu có giặc là ta cứ đi... có mấy gốc cây, lính ngồi... Những bục bệ ngày ấy đóng khung gỗ vẽ trên vải một người bê được hai ba cái bục xếp ra sân khấu, không đồ sộ như bây giờ (những năm cuối thế kỷ XX), bục bệ năm sáu người khiêng mới nổi choáng ngợp sân khấu. Do hoàn cảnh chiễn trường, mỹ thuật cải lương trang trí gọn nhẹ, cảnh trí có ít cảnh tượng trưng mang chất chung tính, những cảnh ấy có thể ứng dụng trang trí cho nhiều vở khác nhau. Phương châm trang trí cải lương gọn nhẹ, thuận lợi vận chuyển, bài trí sân khấu. Mỹ thuật cải lương vùng giải phóng tả thực đơn giản, tạo không khí vở diễn, sân khấu đến với công chúng như người thực việc thật, tạo không khí giao cảm công chúng với diễn viên. Nếu âm nhạc, nghệ thuật diễn chân thực, mỹ thuật tạo sự tiếp cận công chúng của sân khấu hiện thực. Mỹ thuật sân khấu vùng giải phóng mang đặc tính:

- Tả thực tượng trưng

- Chung tính, gợi tả.

Mỹ thuật cải lương gợi tả là chính, tạo không khí vở diễn, người xem coi đó là sân khấu, không phải diễn trên bãi trống bên sân chùa, hoặc ven làng quê Nam Bộ. Điều chính yếu mỹ thuật thời kháng chiến tạo cảm giác giới hạn sân khấu và công chúng, đôi khi diễn cải lương, ca nhạc, kịch nói, múa, tấu hài... từ đầu đến cuối chỉ có cái phông trắng, mấy tấm ván kê trên bãi cỏ, đó là giới hạn khác biệt sân khấu với bãi cỏ. Tuy hoàn cảnh diễn nghèo nàn, nhưng người xem đông có đêm diễn ven các huyện trong ấp, Củ Chi... ba, bốn, năm, sáu ngàn người xem. Nghệ thuật thời chiến dễ hấp dẫn, nhiều buổi hành quân đến diễn luôn, chẳng có giới hạn sân khấu, khán giả, người xem, người diễn quây quần bên nhau hoà đồng vỗ tay và nước mắt. Nhiều chàng lái xe, anh lính, các vị tá... chỉ thích gặp mặt được nhìn các cô văn công là sướng cả đêm không ngủ được nói gì đến xem diễn. Nên mỹ thuật sân khấu ở chiến trường sơ lược giản đơn, hoá trang trang phục còn hạn chế. Phần nhiều các diễn viên chỉ bôi phấn cho có hoá trang, ít khi vẽ my, đắp mặt, phần lớn là trang điểm, trừ những nhân vật đặc biệt như: kép xanh, kép đỏ mới vẽ mặt. Nhiều diễn viên trên căn cứ phải tiết kiệm son môi, phấn bôi mặt, dưới đồng bằng thoải mái hơn. Do hoàn cảnh khó khăn, các nhân vật cải lương hoá trang, trang phục đơn giản,hợp nhân vật ít có đặc tả phục trang đặc biệt.



Mỹ thuật phục trang, hoá trang mang tính tự nhiên chân thực, bình dị. Sân khấu kháng chiến chinh phục công chúng bằng: nghệ thuật chân thực giản đơn từ tình cảm, hơi thở cuộc sống, khoảng cách nghệ thuật và hiện thực cuộc sống như hoà vào nhau, tạo cảm xúc chân thực, mộc mạc. Nghệ thuật cải lương đáp ứng kịp thời khát vọng văn hoá, nghệ thuật về cuộc sống mới của nhân dân, bộ đội vùng giải phóng. Đó là thế mạnh của sân khấu cải lương vùng gải phóng Nam Bộ.



2. Sân khấu cải lương vùng tạm chiếm.



3.1 Giai đoạn 1945 – 1955.



Sân khấu cải lương kháng chiến nghèo nàn, mất cân đối nhiều mặt, nhưng đổi mới nghệ thuật. Còn sân khấu vùng tạm chiếm, dù các đoàn thành lập lại, đổi hướng nghệ thuật diễn... Nhưng cải lương vùng tạm chiếm các tỉnh Nam Bộ, chủ yếu ở Sài Gòn và các thành phố lớn là sân khấu thành thị, cải lương thương mại, đáp ứng công chúng hướng thẩm mỹ mới hoàn chỉnh các mặt.



Sân khấu cải lương thành thị các tỉnh Nam Bộ, không có tư liệu dẫn giải, nhưng sân khấu Sài Gòn khá phong phú, các đoàn hát đua nhau ra đời sau khi chính quyền tạm thời ổn định các mặt kinh tế chính trị, văn hóa xã hội. Các đoàn cải lương ra mắt phục vụ lớp công chúng thành thị, như một bước ngoặt nghệ thuật mới, cải lương phục vụ chính quyền mới, theo luật pháp kiểm duyệt văn hoá, nghệ thuật và các chế độ khác tại Sài Gòn. Hàng chục ban cải lương ra đời, tạo không khí sân khấu mới.



Năm 1949, đoàn Thanh Minh, Thanh Nga ra đời diễn những vở cải lương kiếm hiệp của Mộng Vân. Diễn viên: Năm Nghĩa (bầu chủ), Chí Hiếu, Ngọc Nuôi, Việt Hùng, Thuý Nga... Sau một số vở của Mộng Vân không ăn khách, đoàn chuyển hướng diễn cải lương xã hội như Lửa lòng thiếu phụ, Hoàng tử gù, Những viên Ngọc...



Đoàn Phụng Hảo tồn tại từ trước năm 1945, đến năm 1947 đi diễn bên Lào, năm 1950 ra Hà Nội diễn. Năm 1951 về Sài Gòn, đổi tên là đoàn Con tằm, diễn viên: Kim Lan, Kim Cúc, Năm Châu, Tư Anh, Ba Vân... Năm 1952 nghệ sĩ Năm Châu thành lập đoàn cải lương Việt kịch Năm Châu. Diễn viên: Kim Cúc, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Bảy Cao, đoàn diễn một số vở: Tây Thi, Nát cánh hoa rừng, Hậu chiến trường...



Năm 1949, đoàn Nam Trinh của Bảy Cao, đổi thành Con Tằm, diễn viên: Bảy Cao, Năm Châu, Kim Cúc, Tư Anh... diễn các vở: Anh chị ăn mày, Máu lệ đồn điền... Năm 1950 tan rã vì bị chính quyền liệt vào loại có tư tưởng chống đối xã hội. qua một số vở phê phán hiện thực xã hội, nói về những người cạo mủ cao su bị bóc lột, cuộc sống nghèo khổ không lối thoát... Đoàn Con Tằm, góp một tiếng nói tố cáo xã hội đương thời.



Năm 1950, đoàn cải lương Hoa Sen ra đời, diễn viên: Kim Thanh, Kim Thuỷ, Thuý Nga... Đoàn diễn các vở: Ai bán nước, Chiếc áo mùa đông, Đêm lạnh trong tù, Người nữ gián điệp, Đoàn chim sắt, Cô giáo làng... Những vở diễn của đoàn phản ánh đời sống thôn dã, có tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc.

Năm 1950, đoàn Kim Thanh có các diễn viên: Thuý Nga, út trà Ôn, Kim Chưởng, Thanh Cao, Việt Hùng, Ngọc Nuôi, ánh hoa... Đoàn diễn các vở: Cô giáo làng, Ai bán nước...



Đoàn cải lương Hương hoa, diễn một số vở của các ban hát khác như Giai nhân và ác quỷ, Người thợ rèn, Ai bán nước...



Năm 1952, Đoàn Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há, diễn viên có: Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam... Đoàn diễn các vở: Chốn hậu cung, Giai nhân và ác quỷ... Đoàn thường diễn cải lương tuồng cổ, tuồng Tầu, tuồng Việt.



Đoàn cải lương Kim Thoa của nghệ sĩ Tư Chơi, có các diên viên: Kim Thoa, Tư Chơi, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Kim Cúc... Đoàn diễn các vở: Chiếc áo thiên nga, Sấm sét đêm mưa, Hận chiến trường,...



Tại Sài Gòn và các thành phố dưới đồng bằng Nam Bộ còn nhiều đoàn cải lương chưa có điều kiện sưu tầm đầy đủ, nhưng qua mười đoàn cải lương kể trên cho thấy các khuynh hướng diễn cải lương khá phong phú. Các đoàn diễn cải lương tuồng cổ, cải lương xã hội, nổi bật hai đoàn cải lương Việt kịch Năm Châu, Kim Thoa... diễn một số vở cải lương có tinh thần yêu nước, một số vở tố cáo xã hội thực dân cũ, bóc lột công nhân, nhân dân lao động. Đây là bước tiến bộ, biểu hiện lòng dũng cảm, tinh thần yêu nước của các bầu chủ, diễn viên, tác giả đã nhìn thấy sự bất công của xã hội hiện tại, hé mở tinh thần tố cáo xã hội, bày tỏ sự cảm thông với người lao động, hướng về quê hương dân tộc.



Cải lương vùng tạm chiếm giai đoạn đầu cuộc kháng chiến có đội ngũ tác giả viết nhiều vở diễn thành công, nói tới hiện thực xã hội và lòng yêu nước như các vở: Anh chị ăn mày, Đoàn chim sắt, Đêm lạnh trong tù... Nhiều tác giả là diễn viên được công chúng yêu thích như Ba Du viết vở: Chàng ngốc... Năm Nở vở: Anh chị ăn mày, Ngày về, Nỗi lòng chị Bếp, Ông huyện hàm hàm, Ông Táo 30 tết, Thử làm bé, Vó ngựa truy phong, Những kẻ vứt đi, Hội yêu chồng... Đội ngũ tác giả: Năm Châu, Mộng Vân, Trần Hữu Trang, Bảy Nhiêu, Thu An... sáng tác nhiều vở mới góp phần đổi mới cải lương giai đoạn đầu sống trong lòng địch. Những vở diễn có tính dân tộc, yêu nước. Cải lương tạm chiếm còn những đoàn ca diễn bi lụy, diễn câu khách... nhưng đã có bước tiến mới, hướng về nghệ thuật dân tộc truyền thống. Dù đâu đó, các ban hát, các nghệ sĩ còn lối ca diễn sáo mòn lai căng, khoa trương hình thức...



3.2. Nghệ thuật diễn.



Nghệ thuật cải lương Sài Gòn và các thành phố vùng tạm chiếm, đổi mới nghệ thuật diễn, có số ban hát ổn định các khuynh hướng diễn ít lộn xộn. Mấy năm đầu cải lương quay về diễn tuồng Việt, cải lương lãng mạn, nhiều ban hát thành lập lại lớp diễn viên mới xuất hiện nghệ thuật diễn tươi trẻ.



Thế hệ diễn viên gạo cội Năm Phỉ, Phùng Há, Kim Cúc, Năm Châu, Bảy Nhiêu... còn lung linh trên bầu trời cải lương, nhưng thế hệ mới được công chúng hâm mộ không ít như út Trà Ôn, Chí Hiếu, Việt Hùng, Ngọc Nuôi, Khánh Hồng, Mỹ Dung, Kim Thanh, Thanh Sơn, Kim Hà, Hề Sáu Tỵ, Ba Tét, Vân Lạng, Ba Hai, Kim Thoa, Ngọc Lợi, Kim Anh, Kim Lan, Hai Nữ, Tố Nữ, Bảy Nam, Năm Nghĩa, Nguyệt ánh, Năm Nhỏ, Duy Liên, Hai Khương, Hai Thành, Ba Đời, Tư én, Mười Bửu, Sáu Nết, Ngọc Anh, Tư Sanh, Bảy Nhỏ, Văn Lãng, Hai Dậu, Sáu Ngọc, Tư út, Kim Lan, Thanh Tòng, Thanh Hương, Bảy Bình... Thế hệ mới diễn chân chất, ca diễn cải lương tuồng Việt, một số ca tân nhạc hát nhảy những điệu valse, tăngo... Nghệ thuật diễn nghiêng về âm nhạc Tây, nhiều diễn viên ảnh hưởng lối trình diễn opera. Từ năm 1950, nhiều hình thức ca tân nhạc vào cải lương. Các diễn viên ca trưng mốt thời trang, khoe giọng ca. Nghệ thuật diễn phá bỏ hình thức cải lương tuồng cổ, carabộ. Hình thức sân khấu, thanh nhã, gần với cuộc sống con người thành phố. Tại Sài Gòn có ba khuynh hướng diễn cải lương:

- Cải lương tuồng Việt

- Cải lương chuyển thể tác phẩm phương Tây.

- Cải lương tuồng Tầu.

Cải lương tuồng Việt nhiều vở lịch sử, con người đương đại như: Nửa chừng xuân, Em muốn tự do,Khúc ru ca, Hoa cuối mùa, Người điên biết yêu, Tấm lòng trinh, Trần Hưng Đạo, Trưng Trắc Trưng Nhị, Mỵ Châu Trọng Thuỷ... Diễn viên diễn những vở đương đại gần với hơi thở con người xã hội mới, nhiều lớp thoại như kịch nói, diễn tự nhiên. Những vở cổ diễn viên cách tân động tác vũ đạo, đi điệu bộ chuyển sang đi đứng ra bộ cách điệu nhẹ hơn. Nghệ thuật diễn gần với nhịp sống mới so với hình thức diễn cải lương tuồng cổ những năm 30. Nghệ thuật diễn những vở cải lương chuyển thể tác phẩm phương Tây, hoặc những vở đương đại có cảnh nhảy đầm... diễn hoàn toàn như sinh hoạt đời thường mang tính hiện tại. Những vở cải lương tuồng Tầu, diễn viên diễn theo hình thức cải lương tuồng cổ, cách tân đôi chút, những giọng ca Triều Quảng ca đậm chất Quảng, hát nhiều bài sáng tác mới hơi Quảng. Những động tác diễn ra bộ còn giữ phong cách cổ, tại Sài Gòn có đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ năm 1950 của bầu Khánh Hồng – Minh Tơ, đoàn diễn nhiều vở tuồng Việt như Kiều, Kiều Nguyệt Nga, Mỵ Châu Trọng Thuỷ... Nhưng khuynh hướng tuồng Tầu nổi bật hơn cả.



Nghệ thuật diễn cải lương đổi mới, cải lương cổ, cải lương đương đại cách tân theo nhịp sống thời đại mới, ca diễn ngọt mùi, ngôn ngữ hành động diễn gần với những động tác sinh hoạt cuộc sống đời thường. Các diễn viên hoá trang, phục trang đẹp, sân khấu lộng lẫy, hoành tráng, xem cải lương đương đại, hay tuồng cổ bị chinh phục bởi sự lộng lẫy lung linh, kim sa, kim tuyến, ánh sáng đen màu. Đặc biệt sự tôn nghiêm của không khí sân khấu, các diễn viên, các ban hát chinh phục người xem đầu tiên bằng hình thức bài trí sân khấu, những đào kép đẹp. Sau phần hình thức bên ngoài, nghệ thuật ca diễn, những đào kép chính diễn sâu sắc có xảo thuật, ca kỹ thuật... Nghệ thuật diễn, hình thức sân khấu tạm chiếm tiến bộ hơn những năm trước, dù còn những vở hoà theo chế độ tay sai, có nghệ sĩ đã tô vẽ cho chế độ ấy muốn nó tồn tại, có phần thoả hiệp của cải lương vùng tạm chiếm.



Lịch sử cải lương 6
Tuấn Giang

3.3. Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc



Sự tiến bộ của bài trí sân khấu, nghệ thuật diễn, đưa đến sự phát triển âm nhạc, nhiều nhạc sĩ sáng tác ca nhạc vào vở mới. Những hình thức sáng tác ca khúc, khí nhạc vào vở mới đậm chất cải lương. Ngày xưa ít có hiện tượng sáng tác ca khúc mang giai điệu riêng vượt ra ngoài hơi cải luơng, ca nhạc thường dựa vào hơi làn điệu, bài bản để sáng tác bài ca mới. Vở cải lương tuồng Tầu của đoàn Khánh Hồng – Minh Tơ, sáng tác những bản nhạc hơi Quảng hay, không xa lạ với điệu hát Quảng. Những ca khúc mới vào cải lương gần với bài bản cải lương.



Ca nhạc cải lương đã tiến bộ, các ban hát cải lương có đội ngũ nhạc công giỏi, tuy nhiên phần lớn là nghệ nhân, ít biết nhạc đồ rê mi, họ chỉ quen hoà tấu lòng bản hò xự xang... nhưng kỹ thuật hoà tấu cao. Nhiều nhạc công là nhạc sĩ sáng tác, các dàn nhạc có hai bộ phận, số trẻ thích nhạc đồ rê mi, giới già thích hò xự xang... các nhạc công thống nhất khi đệm ca cải lương là theo cổ nhạc. Những đoạn tân nhạc dành riêng cho tân nhạc, cổ nhạc hoà tấu bài bản. Nhiều ban hát có hai dàn nhạc: Tân nhạc thường sử dụng ghi ta viên, violon, clarinette, trompette, hoặc accordeon... Dàn cổ nhạc nhiều nhạc công như Mười Còm, Ba Cần, Văn Còn, Ba Chấp, Hai Phước, Quốc Dũng, Năm Hưng, Tư Tòng, Tám Tá, Mười Nhường, Hai Thạnh, Tám xâm... hoà tấu nhạc khí khá hoàn chỉnh từng phần cho vở diễn. Dù còn một số hạn chế, chất biểu hiện đặc tả khí nhạc chưa rõ, chủ yếu nhạc gây không khí nhưng đã có chủ ý âm nhạc hỗ trợ vở diễn làm nền mô tả. Âm nhạc có vị trí trong vở diễn, tuỳ từng ban hát mạnh về tân nhạc lấn át cổ nhạc, có ban coi trọng cổ nhạc từ đệm cho bài bản đến hoà tấu nhạc toàn vở. Nhiều nhạc công cùng diễn viên đệm cho ca thành những cặp ca chinh phục công chúng, nhiều người thích Tư út ca Vọng cổ gọi là Vọng cổ Tư út... Khi Tư út mất, út Trà Ôn lấy tên đó, có nghĩa kế tiếp sự nghiệp ca Vọng cổ Tư út . Ca Vọng cổ nhịp 16 trở thành bài độc chiếm sân khấu cải lương, nhiều ca sĩ nổi tiếng ca nhịp 16 – nhịp 32 đưa kỹ thuật ca phát triển cao các hình thức chắp nối bài ca. Ca Vọng cổ với điệu Oán, với các bài dân ca, ngâm, kể, caVọng cổ với ca khúc. Đây là kỹ thuật ca mới, ca Vọng cổ với bài bản, với dân ca, đặc biệt hình thức ca tân cổ phát triển mạnh. Các nghệ sĩ đã thuần thục các hình thức ca Vọng cổ với bài bản, làn điệu, tạo kỹ thuật ca mới.



Ca nhạc cải lương hấp dẫn: âm nhạc diễn tả, kỹ thuật hoà tấu cao, tạo không khí vở diễn có khí thế, diễn tả sâu các trạng thái tình cảm nhân vật, tình huống sân khấu. Đây là điểm mới, trước đây âm nhạc chỉ cốt gây không khí toàn vở, giai đoạn này chỉ chú ý tới sự mô tả tình cảm. Phần ca phát triển các loại kỹ thuật ca làn điệu, bài bản với bài Vọng cổ, nhập hồn ca nhạc thành những cặp ca nhạc hấp dẫn công chúng. Sự nổi tiếng lôi cuốn bài Vọng cổ với các đào kép phục trang đẹp gây ấn tượng nhân vật, từng vai diễn thành thần tượng của người hâm mộ. Sân khấu cải lương khá hoàn chỉnh: nội dung, hình thức là một tổng thể sân khấu tình cảm mang sắc màu hội hoạ.



b. Mỹ thuật, phục trang.



Mỹ thuật phục trang sân khấu tạm chiếm có điều kiện đầu tư, nhiều hoạ sĩ chuyên vẽ cho một số ban lớn như Việt kịch Năm Châu, Quốc gia Kịch đoàn, sau này có Khánh Hồng – Minh tơ... Các hoạ sĩ chuyên tâm vẽ phông cảnh sân khấu tả thực, tả thực như thật hoành tráng, hoặc tả thực như thật, vẽ chi thiết như tranh Tầu.



Nhiều bầu chủ, giới cải lương và công chúng yêu cải lương tôn thờ vẻ đẹp cải lương là dòng sông trăng, đó như một tuyên ngôn sân khấu cải lương. Các đoàn vẽ phông cảnh như tranh thuỷ mặc. Những vở cải lương lịch sử, dã sử như Trần Hưng Đạo, Trọng Thuỷ Mỵ Châu... hoạ sĩ vẽ chi tiết từng ánh mắt con rồng, vẩy rồng... có thể chưa rõ con rồng ở thời nào, nhưng nhìn ánh mắt, bộ móng vuốt rồng thấy cái oai của biểu tượng nhân vật. Đoàn Minh tơ, Việt kịch Năm Châu, Phụng Hảo... nhiều vở hay treo tranh hổ, hoặc đầu rồng trên cái phông lớn của cảnh cung đình... Những nhân vật hung ác thì mắt hổ xếch, mắt rồng xếch nhe nanh... Những vở cải lương đương đại, lãng mạn trữ tình, cảnh trí nhẹ nhàng thơ mộng, tạo vẻ đẹp lung linh sắc màu, sân khấu ảo giác. Cấu trúc sân khấu, có cột trục, đồ vật... là những mảng bẹt gợi tả, tạo khoảng không thoáng rộng, đạt tiêu chí: uy nghiêm, lộng lẫy, hoành tráng, hoặc trữ tình tươi mát, khoái cảm bâng khuâng lưu luyến lung linh. Bước vào phòng, nhìn lên sân khấu uy nghiêm lộng lẫy khi xem những vở cải lương cổ. Còn những vở cổ trữ tình hoặc đương đại, nhìn thấy sự thoáng rộng lung linh mát mắt, đẹp đến mê hồn trước những cảnh núi sông, dòng suối tiên sa kỳ thú, ra về cứ bâng khuâng nhớ cảnh mê, tình. Đó là những ấn tượng hình thức, một thời mỹ thuật cải lương hoà cùng vở diễn, hấp dẫn chinh phục công chúng bằng hình thức sắc mầu lung linh, huyền ảo.



Mỹ thuật cải lương góp một tiếng nói hấp dẫn, chinh phục người xem,có phần gợi tả tạo không khí cho nhân vật, biểu hiện dáng vẻ bên ngoài và nội cảnh, tính cách bên trong về cái thiện, cái ác, đấng quân vương, người quân tử nho nhã. Mỹ thuật khắc hoạ vẻ đẹp lung linh bằng những cảnh tiên sa, chốn hoàng cung của các ông hoàng bà chúa, hoàng hậu, công chúa, những mẫu người đẹp được tô vẽ cùng hoá trang, phục trang. Phục trang các nhân vật quy phạm thành một mẫu, theo các mô típ hình mẫu nhân vật. Phục trang đến giai đoạn này, sau mấy chục năm phát triển đã hoàn chỉnh các hình mẫu nhân vật, tông mầu sân khấu cải lương. Điêù ấy thành phong cách mỹ thuật, phục trang, hoá trang sân khấu cải lương. Những vở cải lương chính kịch, sân khấu hoành tráng rực rỡ gam mầu nóng, tạo không khí uy nghiêm, trang trọng. Những vở trữ tình, bi kịch, sử dụng gam lạnh tạo cánh đồng xanh, rừng núi trữ tình tươi mát, hoặc ảm đạm, lạnh lẽo...



Phục trang quy ước chung – công chúa áo dài tay thụng, gam màu vàng chanh, sáng hoặc màu xanh lam hoặc biển xanh, hồng nhẹ. Những vở tuồng Tầu thường đội mũ đuôi lông trĩ dài. Phục trang hoàng hậu, áo như công chúa sẫm màu hơn, hoa văn kim tuyến, kim sa óng ánh hoặc màu hồng sẫm. Phục trang quan văn, áo thụng tay dài màu trắng phớt xanh nhẹ, có chim phượng, kim tuyến long lanh, tầm ngực chim phượng, mây ngũ sắc trong khuôn hình chữ nhật... Những nhân vật phản diện gam màu lạnh, màu ghi nhạt hoặc màu đen... tạo cảm giác con người bất chính. Quan võ, áo sẫm mầu, hoa văn mây sáng, màu đỏ rực rỡ... Tông màu cải lương cho phục trang giống nhau, nhưng khi pha màu vào các nhân vật, cải lương Nam có tông màu khác hẳn cải lương Bắc. Cải lương Nam thường phục trang công chúa mầu xanh biển, đạm hoặc nhạt, mát mắt, cải lương Bắc màu xanh da trời, cải lương Miền Trung màu xanh thẫm, gần với màu xanh biển và rừng.



Những hình mẫu nhân vật cải lương đã quy chuẩn hoá màu sắc, hoá trang, phục trang... đây là sự hoàn chỉnh mỹ thuật phục trang cải lương. Sân khấu cải lương vùng tạm chiếm cả nước đã chuẩn hoá mỹ thuật sân khấu, hoá trang, phục trang các nhân vật.



1. Sự phát triển cải lương các đô thị Miền Nam.



4.1. Giai đoạn 1955 – 1965.



Theo thoả ước hiệp nghị Giơnevơ năm 1954, sau hai năm thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam thành một Nhà nước bằng bầu cử tự do. Đây là nguyện vọng toàn dân tộc, nhưng hai năm qua đi rất nhanh, hai miền tồn tại hai Nhà nước, hai chỉnh thể quốc gia có đời sống văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau. Nhân dân hai miền bị xô đẩy vào cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất Tổ quốc, văn nghệ sĩ hưởng ứng cuộc đấu tranh theo nguyện vọng dân tộc. Nhân dân Miền Nam dưới luật 10/59, nhưng các văn nghệ sĩ vùng tạm chiếm anh dũng, kiên cường, công diễn những vở cải lương có tinh thần đấu tranh thống nhất. Sân khấu cải lương các đô thị Miền Nam phát triển mạnh, ổn định số đoàn, đội ngũ tác giả, diễn viên... Những đoàn cũ đang tồn tại giai đoạn trước có số đoàn đổi tên, ở giai đoạn sau thêm nhiều đoàn mới.

Năm 1955, ra đời đoàn cải lương Bích Thuận. Năm 1954 đoàn cải lương Kim Chung từ Hà Nội vào Sài Gòn. Năm 1957, đoàn cải lương Phước Chung. Năm 1960, đoàn ánh chiêu dương, Thanh Minh, Kim Chưởng. Năm 1962, đoàn Thủ đô, Thồng nhất, Tinh hoa, Hoa sen. Năm 1963, đoàn Dạ lý hương, Hương mùa thu. Năm 1964, đoàn Thuý Nga, Tâm hoa lan... dưới thị xã, thành phố Cần Thơ, các tỉnh Long An, Cà Mau từ năm 1965 ra đời các đoàn: Trăng ngàn soi, Sao vàng, Việt Nam, Vàm cỏ Đông, Sông Trà khúc, Bông dừa trắng...



Sân khấu cải lương vùng tạm chiếm phát triển mạnh ở hầu hết các thành phố, thị xã tỉnh luỵ trước đời sống phồn hoa những năm đầu Mỹ đổ quân vào Miền Nam. Sau mấy năm chiến tranh ác liệt diễn ra giữa hai bên, vùng chiến sự lan rộng đến cả Sài Gòn, Gia Định, nhiều đoàn cải lương tan rã. Nhưng cải lương Sài Gòn vẫn vững mạnh, phải nói là hùng mạnh bởi có nhiều ban hát lớn, nhiều nghệ sĩ tài danh trụ cột nằm ở đây. Dù họ là diễn viên các tỉnh như: Bạc Tuyết, Hùng Cường, Tấn Tài, út Trà Ôn, Lệ Thuỷ... Nhưng phải trụ ở các ban lớn Sài Gòn họ mới nổi tiếng... Đoàn cải lương tuồng cổ Khánh Hồng – Minh tơ ra đời năm 1950 chuyên diễn cải lương tuồng cổ. Đoàn có công đào tạo đội ngũ diễn viên mới, sau này họ trở thành hạng sao, siêu sao cải lương của hôm nay và ngay cả lúc ấy. Lớp diễn viên đầu tiên: Mỹ Dung, Thanh Tòng, Bo Bo Hoàng, Văn Ngà, Kim Thanh, Xuân Liễu, Bửu Truyện, Ngọc Tín... Đoàn cải lương tuồng cổ Minh tơ diễn tuồng Tầu, tuồng Việt các vở: Phụng Nghi Đình, Bao Công tra án, Dưới mái Tây hiên, Trọng Thuỷ Mỵ Châu, Lưu Bình Dương Lễ, Lục Vân Tiên, Tống Trân Cúc Hoa... Năm 1958, phong trào người hoa phát triển mạnh, dân số tới gần hai triệu người, đoàn diễn cải lương Triều Quảng, như một phát hiện mới rất ăn khách, thực ra chỉ là sự lặp lại cải lương tuồng Tầu năm 1921, nhưng đồ cũ sài lại hoá mới. Thực ra hình thức ca diễn giai đoạn này kỹ thuật cao hơn, đào kép trẻ đẹp, sân khấu... hấp dẫn hơn, mới lạ thực sự. Vào cuối năm 1965, có thời gian đoàn chuyên diễn Hồ Quảng, được số đông người Hoa yêu thích, người Việt nghe thấy mới lạ trước những giọng ca trong sáng như chuông, trang phục lộng lẫy như tiên nữ giáng trần.



Đoàn cải lương Thanh Minh năm 1960, đổi tên là Thanh Minh – Thanh Nga, bầu chủ là bà Năm Thơ, ông Năm Nghĩa, ba má của nghệ sĩ tài sắc Thanh Nga, Bảo Quốc. Nghệ sĩ của đoàn có: út Trà Ôn, út Bạch Lan, Thành Được, Minh Tấn, Thanh Tú, Chí Hiếu, Hữu Phước, Kim Cúc, Hoàng Giang, Kim Loan, Việt Hùng... Những vở khá nổi tiếng của đoàn: Tấm lòng của biển Nhị Kiều, Nửa đời hương phấn của Hà Triều – Hoa Phượng, Bông hồng cài áo – Hoàng Khâm, Cung đàn trên sông lạnh, Lỡ bước sang ngang – Thu An, Sân khấu về khuya của Năm Châu... Nghệ sĩ Thanh Nga là người dũng cảm vì vào năm 1978, cuộc chiến tranh chống Bành Chứơng sắp nổ ra ở phía Bắc, lên cao trào, nghệ sĩ diễn vở Tiếng trống Mê Linh bị đe doạ sát hại, nhưng giới cải lương Sài Gòn hừng hực khí thế sau khi Thanh Nga chết, nhiều diễn viên khác tình nguyện thay vai chị. Năm 1978, nghệ sĩ Thanh Nga nhận một lá thư nặc danh đe doạ, đừng diễn vở mới nhận, liên tiếp thư nặc danh, Thanh Nga cứ diễn, sau đêm 27 – 11 – 1978, khi về nhà, Thanh Nga bị sát hại. Cái chết của nghệ sĩ Thanh Nga thành một đám tang lịch sử, đồng bào Miền Trung, Hà Nội, Đồng Bằng Nam Bộ và cả nước, nhiều người đến đưa tang chị, giấy lên phòng trào diễn cải lương chống Bành Chướng. Các nghệ sĩ khác tiếp vai diễn của Thanh Nga: Kim Hương, Lệ Thuỷ, Phượng Liên, Thanh Thanh Hoa, Kim Phượng, Mộc Tuyền, Phượng Mai, Ngọc Dầu, Bạch Tuyết, Phùng Há... ở nhiều đoàn hát khác nhau. Đoàn khởi xướng là Thanh Minh – Thanh Nga diễn vở Tiếng trống Mê Linh, sau đến vở Thái hậu Dương Vân Nga, các đoàn: Trúc Giang, Sống chung, Sài Gòn, Đoàn Văn công giải phóng, nhà hát cải lương Trần Hữu Trang... Vở cải lương ăn khác nhất là Thái Hậu Dương Vân Nga, rạp nào cũng không có chỗ cho người xem. Công chúng đến xem có nhiều lý do, xem vì ủng hộ phong trào đấu tranh chống Bành Chướng, xem vì ngưỡng mộ lòng dũng cảm của các nghệ sĩ, xem vì kịch bản và nghệ thuật. Đây là điều thiêng liêng, kính trọng các nghệ sĩ đã bộc lộ tinh thần không sợ chết trước hiện thực nghiệt ngã của Thanh Nga, là người ngoài cuộc. Ngày ấy, lo ngại thay cho tính mạng của các nghệ sĩ tình nguyện nhận vai diễn nguy hiểm này.



Dù rằng cái chết của nghệ sĩ Thanh Nga không phải như các nhà chính trị thổi phồng lên, sau khi sự thực được phát hiện vào năm 1980, Thanh Nga chết do hai tên cướp có súng ngắn sát hại chị. Nhưng đằng sau đó là một phong trào chính trị nguy hiểm, trở thành sự thử thách, thách thức các nghệ sĩ có dám nhận những vai diễn chống Bành Chướng? Ai đã nhận vai diễn ấy, là chấp nhận thế mạng bởi không thiếu kẻ quá khích sẽ sát hại diễn viên, đó là điều có thể xảy ra...



Đoàn Kim Chưởng, bầu Kim Chưởng, có lớp diễn viên trẻ: út Bạch Lan, Diệp Lang, Kim Chưởng, Phương Dung, Thanh Hương, Trường Xuân, Thanh Nguyệt, Phượng Liên, Mộng Thu, Thành Được, ánh Loan... Đoàn diễn các vở: Nửa bản tình ca – Phong Anh, Trương Bỉnh Tòng, Hai chiều ly biệt – Anh Phong, Thuyền ra cửa biển, Chiếc áo ân tình... Đoàn diễn phần lớn những vở cải lương đề tài đương đại, nghệ thuật ca diễn mới, phục trang tân thời, các diễn viên trẻ hấp dẫn.



Đoàn cải lương Kim Chung từ Hà Nội vào năm 1954, do bầu Long, bầu chủ, vợ là Kim Chung, đoàn làm ăn thịnh vượng vào bậc nhất Sài Gòn. Diễn viên đào kép trẻ: Bích Hợp, Diệu Hiền, Lệ Thuỷ, Thanh Hải, Hồng Nga, Mỹ Châu, Thanh Kim Hụê, Thanh Hải, Hùng Cường, Minh Vương, Ngọc Đáng, Bích Hạnh... Những vở diễn hốt ra bạc của Công ty Cải lương Kim Chung: Trời lạnh sương khuya – Yên Trang, Hoa đào – Huỳnh Nguyễn... Sau này công ty cải lương Kim Chung phát triển thành các đoàn cải lương Kim Chung I, Kim Chung II, kim Chung III, Kim Chung IV. Bầu Long là hạng sao của thế giới bầu show cải lương Bắc Hà, hào phóng, tung tiền mua nhiều đào kép trẻ về đào tạo thành tài. Lệ Thuỷ năm 1961, diễn viên hát lồng của đoàn cải lương Chuông vàng do bầu Hai Lợi quản lý. Mẹ Lệ Thuỷ gửi nhạc sĩ Mười Của dạy nghề, ông lại gửi chị làm con nuôi cặp đào kép nổi danh Thanh Sơn, Kim Hà để đi diễn được ngồi ô tô... Năm 1962, Lệ Thuỷ bước lên sân khấu, thu đĩa hãng Asia, năm 1963, được đóng vai chính, chị diễn ba tháng chấn động giới mộ đạo cải lương. Bầu Long đến ký hợp đồng với Lệ Thuỷ 50 đồng lương một tháng, sau sáu tháng tăng lên 250 đồng một tháng. Lĩnh tháng lương tăng đầu tiên, Lệ Thuỷ mua căn hộ ở Nguyễn Thiện Thuật, ngoài mặy tiền 50m vuông hết 200.000 đồng, còn thừa 50.000 đồng đủ để tiêu sài cả tháng. Đến năm 1964 lương là: 1.000.000 đồng / tháng, Lệ Thuỷ trở thành triệu phú cải lương. Nhìn vào tháng lương Lệ Thuỷ thấy sự thăng tiến nhanh, thu nhập nghệ sĩ tăng tiến theo tài năng mà bầu Long trả lương cho người hát thuê, ngày ấy họ sống là thế... Tại Sài Gòn có hai mươi hai đoàn cải lương: Việt kịch Năm Châu, sau đổi tên: Phước Chung, Sống Chung... Tiếp đến các đoàn: Hoa sen, Kim Chung, Nhạn trắng, Phụng Hảo, Kim Thoa, ánh chiêu dương, Huỳnh Long, Minh tơ,Tân thủ đô, Tấn Tài, Tân Thinh, Hương mùa thu, Thanh Minh - Thanh Nga, Thủ Đô, Thu An, Kim Chưởng, Như Ngọc, Thống Nhất, Minh Cảnh, Minh Phụng, Tinh hoa, Dạ lý hương... Nhiều đoàn cải lương dưới đồng bằng ra đời như: Đồng Tâm, Sao ngàn phương, Sông Trà, Ca Kịch Tuấn Kiệt, Trời Nam, Việt Nam, Hương hoa, tỉnh Bạc Liêu, Hàm Luông, Vàm cỏ, Bông dừa trắng... Năm 1962, là sự hưng thịnh cải lương các đô thị Miền Nam ở giai đoạn cuối. Đoàn cải lương Hương mùa thu là đoàn lớn do Thu An làm bầu, ông là tác giả, đạo diễn. Đoàn ra đời năm 1964, dàn diễn viên: Huỳnh Minh, Bo Bo Hoàng, Minh Đạt, Thanh An, Mỹ Châu... Đoàn diễn các vở: Sắc áo bên cầu, Nước ngược dòng, Tiếng súng về khuya, Lá của rừng xanh... do Thu An sáng tác, dàn dựng. Nhiều vở diễn phản ánh tinh thần yêu nước, ông có phương hướng nghệ thuật cải lương dân tộc, hiện đại để đoàn tồn tại khá vững...



Tại Sài Gòn nhiều ban cải lương lớn, hình thành đội ngũ tác giả với nhiều vở diễn nổi tiếng, cùng các vở diễn là đội ngũ diễn viên trẻ hấp dẫn, ca nhạc cách tân đổi mới nghệ thuật. Những tác giả tên tuổi mới: Tường An, Thiếu Linh,Viễn Châu, Hoàng Khâm, Kiên Giang, Nguyễn Phương, Thiên Hương, Nguyễn Thành Châu, Anh Phong, Mộc Linh, Trần Hà - Hoa phượng, Điêu Huyền, Hà Triều, Phi Hùng, Lê Khanh, Lâm Hoài Ngọc, Mai quân, Quý Sắc, Năm Nở, Yến Trang, Nguyễn Đạt, Ngọc Lan, Phi Vân, Duy Lân... Sân khấu cải lương các đô thị Miền Nam phát triển mạnh, bên cạnh các vở diễn có tinh thần yêu nước của một số ban hát, phần lớn an phận diễn doanh thu. Nghệ thuật diễn có nhiều hướng dân tộc, hiện đại, hình thức lai căng, xô bồ, tuyên truyền lối sống văn hoá thị dân Mỹ.



4.2. Nghệ thuật diễn.



Cải lương đô thị Miền Nam có điều kiện phát triển nhiều ban hát mạnh, bề thế, xuất hiện những diễn viên ngôi sao ca hay, thanh sắc vẹn toàn. Nghệ thuật cải lương tổ chức quy mô, mang tính tự phát. Những việc làm ấy hoàn toàn tự nhiên xuất phát từ tâm những người yêu cải lương, quý trọng nền nghệ thuật dân tộc. Đây là nét dặc biệt của cải lương đô thị Miền Nam, Nhà nước chỉ quan tâm đến ban hát nào là công cụ đắc lực tuyên truyền cho chính quyền, bằng không sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi. Nhưng lại có nhiều ban hát, nghệ sĩ, tổ chức các hội, các giải thưởng động viên người làm nghề, phát triển cải lương.



Nghệ thuật diễn sân khấu cải lương ngày càng nâng cao chất lượng vở diễn, phát triển toàn diện. Lực lượng diễn viên luôn được coi trọng đào tạo lớp kế cận và khích lệ phát triển tài năng. Năm 1957, giải thưởng cải lương có uy tín nhất ra đời, có tiêu chí cụ thể xét thưởng và trao thưởng cho các diễn viên. Giải thưởng này do cá nhân tự đứng ra, góp tiền thành lập Hội đồng giám khảo gồm các nhà báo là thành viên. Tiêu chí người dự thi: ca hay, diễn giỏi, truyền cảm sâu sắc, hình thức đẹp, nhân cách không sai phạm lớn, là những người có đủ phẩm chất trình diễn dự thi. Ban giám khảo bình chọn bỏ phiếu kín, hoặc cho điểm kín, sau đó cộng lại chia trung bình công khai tại chỗ, công bố luôn. Những người dự thi rất vô tư, khá công bằng và tương đối khách quan. Ông Vương Hồng Sến tinh đời khi nhận xét Thanh Nga là đào đẹp nhất, ca hay nhất thời ấy. Vào năm 1958, giải thưởng đầu tiên, duy nhất trao cho nghệ sĩ Thanh Nga. Những năm sau, giải nới rộng hơn, nhiều người đạt được là lớp diễn viên mới: Ngọc Dầu, Hùng Minh, Bích Sơn, Lan Chi, Thanh Thanh Hoa, Tấn Tài, Ngọc Hương, Kim Loan, Diệp Lang, Bạch Tuyết, Thanh Tú, Phượng Liên, Bảo Quốc, Ngọc Bích, Mỹ Châu, ánh Loan, Thanh Nguyệt, Thanh Hoàng... Ngoài các diễn viên tài sắc,mấy năm sau, Hội đồng còn trao giải thưởng cho tác giả có vở diễn hay. Giải Thanh Tâm hoạt động sau mười năm không có điều kiện tiếp tục, vào lúc chiến tranh ác liệt, chính trị nhiều biến động, kịch trường suy sụp, nhiều cái suy thoái tan rã. Những giải thưởng do một nhóm cá nhân tổ chức như một thú chơi, nhưng giải thưởng khá cao. Nghệ sĩ Tấn Tài đoạt giải năm 1962, mua ô tô con về làng, từ đó đã đổi 21 kiểu xe ô tô, chẳng thua Lệ Mỹ ở Sài Gòn giàu sang là bao.



Giải Thanh Tâm đã cổ vũ diễn viên, tác giả phát triển cải lương, lớp diễn viên mới khá mạnh mẽ như: Thanh Nga, Thanh Tòng, Diệp Lang, Mỹ Dung, Ngọc Dầu, Bạch Tuyết, Hùng Cường, Thành Được, Ngọc Tín, Thanh Thế, Năm Vững, Bo Bo Hoàng, Xuân Yến, Xuân Liễu, Năm Bửu, Mỹ Châu, Lệ Mỹ... các diễn viên cải lương vùng tạm chiếm có một trăm hai mươi diễn viên cải lương nổi tiếng từ Sài Gòn đến các đô thị Miền Nam, họ là hạng sao và siêu sao nghệ thuật ca diễn cải lương. Mỗi diễn viên ngôi sao tạo phong cách diễn riêng, người đi vào ca diễn chân thật, bình dị chân quê. Người ca diễn cải lương thành thị óng chuốt, ngọt mùi thanh nhã, tìm về cội nguồn cải lương dân tộc. Các diễn viên diễn hành động ngôn ngữ tự nhiên gần với đời thường. Những vở cải lương lịch sử, động tác diễn cách tân hiện đại hoá những bước đi của nhân vật mang hơi thở nhịp sống đương đại. Những vở cải lương xã hội,nghệ thuật diễn gần với cuộc sống, công chúng dễ cảm nhận. Những ưu điểm của nhiều nghệ sĩ, ban hát diễn cải lương dân tộc, cách tân kỹ thuật diễn, nhằm đổi mới toàn diện sân khấu cải lương, đạt tới giá trị : mỹ cảm. Người xem cảm động vai diễn nghe giọng ca hay, phục trang đẹp, ấn tượng sân khấu mỹ lệ hào hoa. Nghệ thuật cải lương đem đến đổi mới, đa phong cách, nhiều đoàn diễn cải lương chiếu phim ca ngợi Việt Nam cộng hoà, diễn kỹ xảo... Nghệ thuật diễn cải lương có mấy đặc điểm:



- Chân thật xúc cảm

- Hình thức ngoại hình

- Một phần ảnh hưởng Âu Mỹ.



Đó là đặc điểm chung, nhưng còn không ít ban hát diễn xa đà, lai căng, dung tục, có diễn viên ca trong vở Gái quê, người con trai quỳ sát, người con gái đứng thẳng, người con trai chỉ tay vào hỏi cái gì... Không ít ban diễn nhảy máu sexy... Nhiều vở cải lương như: Bóng ai qua thềm, còn ngợi ca nỗi nhớ, vẻ đẹp anh lính cộng hoà... động viên mọi người hăng hái đi lính quốc gia. Vào những thời khắc nghiệt ngã,có cải lương sex, cải lương ôm ngày ấy vì chạy theo thị hiếu công chúng kiếm tiền để tồn tại cũng là lẽ tự nhiên. Ngay những năm đổi mới, sân khấu xã hội chủ nghĩa còn có những hiện tượng tương tự đau có thua kém họ.

Nghệ thuật diễn cải lương các đô thị, nhiều tiến bộ dù là tự do, tự phát, nhưng còn nhiều nghệ sĩ với trách nhiệm nhân văn đã đưa nghệ thuật đến cái đẹp văn hoá dân tộc của sân khấu cải lương trong những ngày lịch sử không bao giờ quên.



4.3. Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc



Sân khấu cải lương giai đoạn 1945 – 1955, hoàn chỉnh các mặt có tính lý luận, nghệ thuật diễn, biên kịch, âm nhạc, mỹ thuật khá ổn định phong cách cải lương Việt – Cải lương tuồng Tầu – tuồng Tây. Sang giai đoạn hai, dựa trên cái nền ổn định chung, cải lương đổi mới nghệ thuật dù là phong cách cải lương Việt, Triều Quảng và những tác phẩm phóng tác theo văn học kịch bản nước ngoài. Vai trò cải lương tuồng Pháp, đến giai đoạn này nằm trong cái chung là tác phẩm phương Tây. Sân khấu cải lương đổi mới tòan diện theo văn minh Âu Mỹ, ở vùng tạm chiếm, còn cải lương vùng giải phóng phát triển sân khấu hiện thực xẫ hội chủ nghĩa, đây là sự khác biệt của sân khấu cải lương Nam Bộ những năm 60 của thế kỷ XX.



Từ sự đổi mới sân khấu, đổi mới nghệ thuật diễn, ca nhạc, mỹ thuật phục trang. Âm nhạc khi Mỹ hoá các đô thị Miền Nam, phong trào nhạc nhẹ Mỹ tràn ngập các quán bar, phòng trà, khách sạn, nơi công cộng biểu diễn ca hát nhạc nhẹ. Nổi bật những năm 60, nhạc sến, nhảy tuýp... Nhảy tuýp một hình thức nhạc nhảy múa thần tượng Mỹ, là thần tượng của các thanh niên đô thị Miền Nam. Sân khấu cải lương và âm nhạc hướng tới nền âm nhạc Mỹ, văn hoá và thị dân. Nhạc sến, nhạc thị dân buồn thảm, nói về thân phận của những người nô lệ da đen kéo dài trên 250 năm khổ cực. Trên đất Mỹ, nhạc sến chưa được coi trọng, nhưng vào cải lương quá phù hợp cho lối hát buồn, ảm đạm... Còn nhạc tuýp lại tạo không khí tưng bừng cho giới trẻ, nhảy sex, nhảy giải toả hết mình khá phù hợp. Từ đó, ca nhạc cải lương có hai thái cực, những người bảo toàn ca nhạc dân tộc lại ca theo lối cổ, nhạc chậm rãi, nhấn nhá từng chỗ lê thê chịu không nổi quá cổ lỗ. Những người cách tân lại đưa vào những bản nhạc nhẹ mới, ca tân nhạc gấp gáp, ít biểu cảm nặng về tạo không khí. Ca nhạc cải lương có hai thái cực tương phản nhau về hình thức trình diễn, hoà tấu dàn nhạc. Nhiều ban hát hoà tấu tân nhạc át cổ nhạc, nhạc nhẹ pop, jazz, tuýp... cùng các điệu nhảy ầm ào trên sân khấu cải lương. Nhiều ban hát Sài Gòn trình diễn mạnh mẽ các bản tân nhạc, nhưng có những nghệ sĩ, những ban hát lại hướng ca nhạc cải lương trở lại bài bản ca ngọt mùi, đậm chất dân ca kinh điển Nam Bộ. Ca nhạc cải lương về cơ bản đổi mới phong cách, cách tân bài bản làn điệu ca, ca mau các bài bản so với giai đoạn trước, âm nhạc mục đích đạt tới:



- Xúc cảm, ngọt mùi

- Tạo không khí tuổi trẻ.



Ca nhạc cải lương dưới các đô thị đồng bằng tương tự như trên thành phố có hai thái cực, nhưng đa phần giữ phong cách ca nhạc bài bản, đậm chất dân ca sông nước đồng bằng Nam Bộ. Tuy vậy, ca nhạc cải lương có hai hướng một là cách tân đổi mới, hai là bảo cổ, vào thập niên 60, ca nhạc cải lương có bước tiến mới. Ca nhạc tiếp tục các dòng nhạc mới, nâng cao kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc, kỹ thuật ca. Nhiều nghệ sĩ ca Vọng cổ được gọi tên riêng Vọng cổ út Trà Ôn, Thanh Nga, Bạch Tuyết, Tấn Tài, Hùng Cường, Thành Được,... Đó là thế hệ ca mới, đổi mới sân khấu cải lương dân tộc, hiện đại.



B. Mỹ thuật, phục trang.



Sự đổi mới sân khấu, ca diễn, dẫn đến đổi mới mỹ thuật phục trang, hoá trang... Nếu âm nhạc có hai thái cực, mỹ thuật đã có các hướng cách tân đổi mới và bảo toàn truyền thống tả thực của mỹ thuật sân khấu cải lương.



Mỹ thuật tả thực coi như một truyền thống cấu trúc, trang trí sân khấu cải lương từ lúc ra đơi đến nay còn được coi trọng. Nhưng không có nghĩa là mỹ thuật tả thực từ xưa đến nay không thay đổi gì? khi nghệ thuật đổi mới, mỹ thuật đã biến đổi dù là tả thực. Sân khấu tả thực chỉ tính đến thập niên 60 của thế kỷ trước đã thay đổi rất nhiều, từ tả thực tượng trưng,tả thực cụ thể đến tả thực cách điệu, từ vẽ lên những tấm vải treo lên nhiều cảnh trang trí chuyển sang vẽ cảnh trên những khối mảng bẹt... Đó là những biến đổi về bố cục, vật liệu, chất liệu... biển hiệu, cuối cùng là thay đổi hoà sắc, cảnh trí. Vẽ tả thực dưới nhiều bút pháp, góc nhìn biểu hiện khác nhau, những vở diễn cải lương đề tài chiến tranh, nhiều ban hát tả thực trần trụi, khốc liệt về cuộc chiến. Có ban hát lại gợi tả cảnh chiến trường thật đẹp, núi rừng, dòng suối, chim ca, thác đổ... mỹ lệ hoá sân khấu, thơ mộng hiện thực để động viên mọi người đi lính Quốc gia như các vở Bóng ai qua thềm của Minh Hoài, Bên hào vạn lý...



Mỹ thuật sân khấu cải lương những năm 60, hiện đại hoá, mỹ lệ hoá sân khấu, đổi mới trang trí, từ cảnh trí phông màn sang trang trí mảng khối, nhưng không choáng ngợp chiếm chỗ không gian sân khấu. Những sân khấu thới ấy, dù trang trí dưới hình thức nào, sân khấu luôn thoáng rộng, hoành tráng đồ sộ, ấn tượng vẫn bao la. Sân khấu cải lương các đô thị vùng tạm chiếm chú ý tới màu sắc, tạo cảm giác tươi mát, bề thế, không gian thoáng rộng. Mỹ thuật cách tân đổi mới, mục đích biểu cảm sâu sắc nội dung vở diễn để lại ấn tượng chinh phục công chúng.



Phục trang cách tân, những vở lịch sử hoà sắc mới, quần áo công chúa tông màu lạnh xanh biển, xanh thẫm, nhưng kim tuýên, kim sa long lanh. Tay áo trước kia dài rộng nay nhỏ lại, mặc bó hơn, cổ lại hở ra... Tuỳ mỗi ban hát hoặc ý thích của một số đào kép hạng sao, yêu cầu may theo, mục đích biểu cảm, gợi cảm hình thức. Mặt khác những cách tân ấy mang lại tính phục trang hiện đại hoá vào các vở cổ. Đoàn Minh Tơ,Phước Chung,Kim Chung... Những vở cải lương đương đại, nói về con người thành phố, phục trang lộng lẫy, những mốt mới nhất của Pháp, Mỹ, Sài Gòn, Hồng Kông... được các diễn viên đưa lên sân khấu. Những vở nói về người lính Công hoà, phục trang thi vị hoá, oai phong và đẹp làm người xem thấy oai sởn da gà, hoặc đẹp đến mê hồn. Thiếu nữ các phục trang kiểu Bi ki ni, đầu tóc, các điệu nhảy... Phục trang tạo dáng vóc nhân vật gợi tả, biểu cảm trực quan chinh phục khán giả hoặc gợi tình... Đây là sự đổi mới mỹ thuật phục trang những năm 60 của sân khấu cải lương tạm chiếm các đô thị Miền Nam.



Hoá trang biến đổi, các diễn viên tô son chát phấn theo từng mốt, có thời Mỹ hoá thì vẽ mặt dáng lai thanh nhã, có thời phin Hồng Kông ăn khách... các đào kép ăn mặc hoá trang theo các mẫu người trên phim, đầu tóc Hồng Kông, có diễn viên còn làm theo phục trang, hoá trang một số nhân vật phim chưởng. Hoá trang đã đổi mới chạy theo mốt thời trang vào cải lương, son phấn tạo dáng nhân vật, đây là bước đổi mới hoá trang các nhân vật con người đương đại phi dân tộc.



Mỹ thuật phục trang, hoá trang đổi mới theo hướng hiện đại hoá đi vào hình mẫu con người đương đại của các dân tộc, loại trừ những phần quá khích, kể trên mỹ thuật phục trang cải lương nhằm mục đích biểu cảm cái đẹp của các nhân vật kịch, đem đến công chúng mẫu thẩm mỹ con người thời đại. Sân khấu cải lương biểu hiện qua cấu trúc mỹ thuật phục trang, nâng cao thẩm mỹ sân khấu, hướng tới cái đẹp ngoại hình cho công chúng.



II. Sân khấu cải lương Bắc.



1. Hoạt động của cải lương từ 1945 – 1955.



Giai đoạn đầu Miền Bắc chính quyền kháng chiến hội quân ở Liên khu III, tập chung các đoàn cải lương, tuồng, chèo, nhiều diễn viên của đoàn tư nhân chạy ra vùng kháng chiến. Sân khấu cải lương hình thành hai khu vực những ban hát nội thành ổn định biểu diễn các hứng cải lương, tổ chức đội ngũ diễn viên tác giả... thành lập ban hát mới, những ban cũ tiếp tục diễn. Sân khấu cải lương kháng chiến, tổ chức hoạt động theo hướng mới các đoàn văn công kháng chiến.

Mấy năm đầu, Nhà nước chưa kịp tổ chức đội ngũ văn nghệ sĩ, các diễn viên cải lương nhiều đoàn từ Hà Nội theo dân di cư ra vùng tự do. Các đoàn lớn: Quốc hoa ban, Thái lạc đài, Tố như, Phụng Khánh, Anh Đệ, Thanh Mỹ... chạy lên Phú Thọ, vào Nam Định, Thanh Hoá, Vinh... lưu diễn cùng dàn chạy loạn. Nhiều nghệ sĩ chạy ra vùng kháng chiến, mỗi người tham góp một chút tiền của, phông màn... mua sắm đạo cụ sân khấu, thành lập đoàn hát. Các đoàn thành lập tự do, diễn năm mười buổi bằng những vở cũ dựng lại, không doanh thu được tự giải tán. Các nghệ sĩ nhập vào các đoàn nội thành mới ra, có đoàn ra hậu phương diễn không đủ chi, gặp bầu mới có thế lực, tài chính, sang tên đổi bảng hiệu ban cho bầu chủ mới... Tình hình hoạt động cải lương tự do từ năm 1945 đến năm 1947, các đoàn tan rã, lập ban mới, nhiều nghệ sĩ chạy đi hát hết ban nọ qua ban kia. Một số nghệ sĩ hăng hái thành lập đoàn hát có đoàn Sĩ Tiến, Sĩ Hùng theo phong trào Nam tiến vào Nam biểu diễn. Đoàn cải lương Sĩ Tiến có các diễn viên: Lệ Châu, Khánh Hợi, Thu Hà, Hoàng Như Mai, Sĩ Tiến, nhạc sĩ Lê Yên, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ... tình nguyện vào Nam biểu diễn, phục vụ đồng bào và những đoàn thanh niên vào Nam chiễn đấu. Đoàn cải lương Sĩ Tiến diễn qua các tỉnh khu III, khu IV, vào Miền Trung lên Đà Lạt. Đêm diễn cuối cùng năm 1946, đoàn trưởng bị bắt, nhờ cậy người quen xin cho ra, đoàn tan rã trở về Bắc. Những ngày đầu cách mạng, các nghệ sĩ vùng tạm chiếm hăng hái, sôi nổi đi theo chính quyền cách mạng, đoàn cải lương ái Liên diễn các vở: Dựng cờ độc lập, Xuân chiến khu... của Sĩ Tiến. Hoạt cảnh Xuân chiến khu của Sĩ Tiến, diễn cải lương chèo, cải lương hát chèo theo điệu luyện năm cung, hát ca khúc mới áo mùa đông, Nhớ chiến khu của Đỗ Nhuận. Đoàn ái Liên còn diễn các vở Phá xiềng xích của Nguyễn Tiến Phúc, Khi rừng mới sang thu của ái Liên. Vở diễn của bà ái Liên nói về những người phụ nữ vùng cao cùng các dân tộc đoàn kết vùng lên phất cờ khởi nghĩa chống Pháp, lá cờ đỏ sao vàng tung bay cùng đoàn nữ du kích lên đường, hát vang bài Việt Nam anh hùng tiến của nhạc sĩ Thẩm Oánh. Nghệ sĩ ưu tú ái Liên người đầu tiên của cải lương Bắc có vở viết về người dân tộc, người đầu tiên nói về người phụ nữ.



1.1 Sân khấu cải lương kháng chiến.



Từ năm 1947 đến năm 1954, nhiều đoàn cải lương tư nhân đi theo kháng chiến, diễn phục vụ dân công, bộ đội. Các đoàn diễn doanh thu ở vùng nông thôn, gặp dân công, bộ đội diễn tháo khoán – nghĩa là không bán vé thu tiền. Nhưng tình hình kéo dài được ba năm, khi chiến sự ác liệt, các đoàn về thành diễn dưới sự kiểm soát của chính quyền vùng tạm chiếm. Khu căn cứ kháng chiến, từ năm 1947, thành lập các đoàn văn công ở Việt Bắc và liên khu III, từ đó hoạt động sân khấu có hai khu vực, hai hướng sân khấu khác biệt.



Sân khấu cải lương kháng chiến có đoàn cải lương đầu tiên năm 1950 tại chiến khu Việt Bắc, đoàn văn công Trung Ương, trong đó có tổ cải lương. Sang năm 1951, tại Hậu Lộc Thanh Hoá ra đời liên đoàn ca kịch kháng chiến, có bộ phận cải lương diễn viên: Hải Tùng, Thuý Ngần, Quỳnh Nga, Lê Thọ, Hoàng Anh, Anh Đệ, Tuấn Hợp, Võ Văn Tư... Căn cứ kháng chiến có hai đoàn cải lương hoạt dộng ở Việt Bắc và Liên khu III, do chính quyền cách mạng quản lý. Vùng căn cứ không chiến từ Ninh Bình, Nam Định đến Vinh có các đoàn cải lương diễn doanh thu Đại Quốc hoa, Thanh Mỹ, Phụng Khánh, Thái Lạc... Tại Đông Quan, Phú Xuyên có đoàn cải lương chiến thắng, sau năm 1948 đổi thành Ngày mới. Đoàn có các nghệ sĩ phần lớn từ Hà Nội như Mộng Dần, Bích Được, Kim Xuân, Bạch Yến, Ngọc Chi, Tuấn Sửu, Tư Giã, Ngọc Văn... Nhiều đoàn cải lương Hà Nội chạy ra vùng tự do còn có đoàn Thanh Kỳ, Nam Hoa, Hồng Kỳ... Tại Thái Nguyên năm 1950, đoàn cải lương Quyết tiến cả gia đình nghệ sĩ cải lương...



Các đoàn cải lương Bắc giai đoạn 1945 – 1950, có 11 đoàn, hai đoàn cải lương do chính quyền quản lý, còn chín đoàn tư nhân. Sang năm 1950 – 1955, cải lương Bắc còn hai đoàn cải lương Nhà nước, vùng kháng chiến không còn các đoàn cải lương tư nhân. Các đoàn cải lương tư nhân chạy vào nội thành diễn tại các rạp ở các đô thị Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... số đoàn cải lương tư nhân từ 1945 – 1955 là 34 đoàn. Từ năm 1950 đến năm 1955 còn bốn đoàn. Những con số này chỉ là tương đối, bởi các đoàn luôn biến động, không còn ổn định nay hợp mai tan. Theo Ngọc Văn ông thống kê số đoàn cải lương tính từ năm 1926 ra đời cải lương Bắc đến năm 1954 là 76 đoàn cải lương, biểu diễn khắp các tỉnh Miền Bắc.



Sân khấu cải lương Bắc có một thời ra đời, phát triển rực rỡ có gần 80 đoàn cải lương, nhưng cuộc kháng chiến ác liệt diễn ra từ nông thôn lên thành thị làm các đoàn cải lương Bắc dần tan rã. Đến năm 1955 Hà Nội còn bốn đoàn, các tỉnh Thái Nguyên, Thanh Hoá mỗi tỉnh còn một đoàn. Số đoàn cải lương Bắc còn đoàn cải lương đi vào chỉnh huấn, thử nghiệm học tập nghệ thuật diễn mới. Sân khấu cải lương kháng chiến chỉ có một đoàn do Nhà nước quản lý.



1.1. Nghệ thuật diễn.



Cải lương Bắc sau năm 1945, biểu diễn chủ yếu cải lương các đoàn tư nhân diễn trong nội thành lan đến các vùng tự do, kháng chiến. Sân khấu cải lương kháng chiến quá ít so với lực lượng cải lương tư nhân, sân khấu tư nhân chiếm hầu hết các sàn diễn ở thành thị và một phần nông thôn.



Các đoàn có sao diễn vậy, họ diễn một số vở cải lương La Mã, giã sử, dân gian, những vở cải lương lãng mạn, Mối tình Lan Điệp, Lá ngọc cành vàng... Nạn diễn cương lan tràn các đoàn, các diễn viên, vở diễn một đằng, diễn viên cương một nẻo. Giai đoạn kháng chiến thiếu kịch bản mới, viết về con người kháng chiến, các diễn viên diễn vở cũ chạy theo thị hiếu:



- Diễn hình thức, ít nội tâm

- Diễn cương, nặng về ca.



Một số đoàn cải lương ra vùng tự do diễn kịch cương tuyên truyền chủ chương tăng gia sản xuất, tiêu thổ kháng chiến, bị công chúng yêu cầu phải ca cải lương. Các diễn viên nhảy vào ca Vọng cổ, công chúng hoan hô náo nhiệt. Nếu những năm đầu cải lương Bắc diễn nghiêm chỉnh có phần cổ điển, sang giai đoạn kháng chiến diễn hình thức pha tạp nhiều loại. Cải lương hương sa, Kiếm hiệp, nhảy đầm... Những đoàn ra vùng kháng chiến diễn gặp nhiều khó khăn trang bị sân khấu, hoá trang, phục trang nên diễn hình thức, lấy nghệ thuật ca làm điểm nhấn câu khách, hoặc pha trò cương...



Sân khấu cải lương kháng chiến nghèo nàn, Liên đoàn ca kịch kháng chiến thành lập năm 1951, đến năm 1952 mới có vở diễn đến năm 1953, đoàn có 13 vở mới, bẩy vở đề tài lịch sử, sáu vở cải lương viết về đề tài con người cách mạng kháng chiến. Thế là đoàn có vốn diễn gồm các loại: kịch thơ, kịch nói, cải lương. Những vở diễn tiêu biểu Lò lửa giặc Tần, ván cờ thế... Những diễn viên của Liên đoàn ca kịch kháng chiến, trong đó diễn viên không diễn cương, diễn theo kịch bản mới, khắc phục một phần lối diễn hình thức, trọc cười vô ý của trào lưu cải lương lúc giao thời. Những diễn viên cải lương kháng chiến bước đầu diễn cải lương theo lời thoại kịch bản, có phần nội tâm, nghệ thuật ca diễn có dung dị. Do hoàn cảnh kháng chiến sân khấu nghèo nàn, phục trang đơn giản, nghệ thuật diễn và sân khấu có phần hiện thực, góp phần nâng cao tinh thần yêu nước vùng tự do.



1.3 Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc cải lương vùng kháng chiến



Thực tiễn sân khấu kháng chiến, nghèo nàn hình thức trang trí, các phương tiện đạo cụ, phục trang, các diễn viên dựa vào ca, nghệ thuật ca nhạc có phần phát triển. Nhưng phát triển chưa hẳn đã là đạt được những thành tựu kỹ thuật ca, nó phản ánh tình thế chung các diễn viên lấy ca làm điểm tựa khi diễn.



Nghệ thuật ca nhạc không phát triển vì những khó khăn khi dựng vở, các đoàn thường hát bài bản cổ, hoặc lấy những bài hát của các nhạc sĩ vào cải lương như: Lời người ra đi, Trần Hoàn, Khoẻ vì nước – Minh Tâm, Diệt phát xít – Nguyễn Đình Thi, Giọt mưa thu... phần hoà tấu dàn nhạc, hoà tấu bài bản làm nhạc nền cho vở diễn, chưa có sáng tác riêng cho vở diễn. Phần ca, các diễn viên ca bài bản, làn điệu cải lương, phát triển ca Vọng cổ với điệu Oán, Vọng cổ với dân ca, Vọng cổ với ca khúc mới, hoặc các hình thức hát nói phát triển. Các đoàn tư nhân ra kháng chiến diễn doanh thu, hay có nói lối, hát nói đối thoại, cương pha trò với công chúng. Những hình thức cương lời trò nhảy ra ngoài kịch bản khá phổ biến, sau đó nhảy vào hát bài hát mới được hoan hô nhiệt liệt. Những diễn viên trong đoàn cải lương kháng chiến khi diễn vở cũ như: Kiều, Triệu Trinh Nương, Mỵ Châu Trọng Thuỷ... Có người còn cương, pha trò ra ngoài kịch bản. Diễn những vở mới sáng tác nghiêm chỉnh hơn, ca diễn theo kịch bản. Diễn những vở cũ, các diễn viên ca hình thức, chọn những bài ca đang được nhiều người ưa thích đưa vào ca, chất ca vàng vọt bi lụy còn nhiều trong các vở diễn. Ca nhạc cải lương kháng chiến chưa phát triển mạnh, vì lực lượng này quá ít, các diễn viên là những người mới thoát thai từ các ban hát tư nhân, chưa có điều kiện học tập để đổi mới kỹ thuật ca, bước đầu còn nhiều hạn chế. Nhiều diễn viên ảnh hưởng các trào lưu diễn cải lương cũ, những diễn viên cải lương kháng chiến chưa thoát khỏi sự ảnh hưởng ca diễn cải lương ngoài xã hội.



Ca nhạc cải lương kháng chiến, phát triển kỹ thuật ca, hoà tấu dàn nhạc chưa cao, nhưng có nhân tố mới, diễn theo kịch bản mới ít diễn cương ca có phần bài bản, tâm trạng tình cảm nhân vật. Ca nhạc cải lương kháng chiễn bước đầu chưa có sáng tác nhạc cho vở diễn, kỹ thuật ca là ca bài bản, ít nhiều đưa yếu tố ca nhạc mới, kỹ thuật ca mới: ca theo bài bản, ca sát tâm lý, tình cảm nhân vật. Từ nghệ thuật diễn có phần hiện thực, ít diễn cương, hạn chế cuơng trò, cương lời, ít hình thức khoa trương. Ca nhạc cải lương kháng chiến đạt được sức sống mới, tinh thần mới, hướng về cuộc kháng chiến. Mỗi bài ca, vở diễn, ca nhạc cải lương kháng chiến đem đến sức sống hào khí cách mạng, tình cảm con người mới đến với công chúng.



b. Mỹ thuật, phục trang.



Sân khấu kháng chiến mỹ thuật phục trang nghèo nàn, ngay những đoàn lớn, nhỏ là dân tản cư, chạy loạn đi diễn ở các vùng tự do, cảnh trí đơn giản, diễn những vở cũ cảnh cũ, những đoàn mới thành lập mua đạo cụ tương đối mang tính dã chiến. Những đoàn Anh Đệ, Bích Hợp, Tân Châu, Phụng Khánh, Nam hoa, Thanh Kỳ, Hồng Kỳ, Đại quốc hoa... nhiều đêm diễn chỉ có cái phông giới hạn sân khấu, không gian ba chiều.



Sân khấu kháng chiến là sân khấu dã chiến, người diễn, người xem ngồi đứng ngoài trời, nơi là sân đình, không có phông hậu lấy bức tường làm phông. Hai bên cánh gà, đoàn nào có sẵn thì treo lên, bằng không ra chợ mua mấy mét vải riềm bâu may cánh gà treo lên chừng 2m, nhuộm nâu, thế là hợp cảnh, hợp tình. Những trường hợp sân khấu là sân đình, người xem ngồi bốn phía thì người diễn viên ước lệ nào là rừng núi, sông biển... Hình thức diễn này như Chèo sân đình, mỹ thuật chẳng có gì để trang trí, vì thế xem cải lương hôm nay nếu trang trí ước lệ là hạ thấp vẻ đẹp sân khấu cải lương. Mỹ thuật sân khấu cải lương tả thực đẹp hoành tráng như Phùng Huy Bính, Bùi Huy Hiếu, hoặc nghệ thuật sắp đặt sang trọng, đồ vật điển hình, phối cảnh thoáng rộng, hấp dẫn để diễn viên diễn. Mỹ thuật sân khấu kháng chiến trong những điều kiện ổn định, có sân khấu ba mặt, dù là ngoài trời nhiều vở diễn của Liên đoàn ca kịch kháng chiến thường vẽ tả thực. Một số ban hát, những đêm diễn có điều kiện treo những cảnh tả thực trong nhiều vở cổ. Những vở cải lương đương đại vẽ tả thực, nhưng chỉ có một số cảnh, hoặc một cảnh cứ treo từ đầu đến cuối vở diễn hoặc kéo lên để phông trắng diễn qua mấy cảnh lại thả xuống. Tình trạng trang trí này đến thời chiến tranh giải phóng Miền Nam còn gặp ở các đoàn văn công diễn kịch, chèo, cải lương. Sân khấu có hiện tượng ấy vì điều kiện chiến trường, di chuyển nhiều, vận chuyển gọn nhẹ, cảnh trí vở diễn chỉ là cảnh tượng trưng. Thực tiễn kỹ thuật sân khấu kháng chiến không phát triển thường là:



- Tả thực - ước lệ



Mỹ thuật cải lương kháng chiến chưa làm đẹp sân khấu, đạo cụ cảnh trí mang tính ước lệ, nhiều vở đạo cụ chỉ là cái bàn ghế cũ nhưng là cảnh triều đình, sang vở khác là cảnh nhà nông... Mỹ thuật trang trí mục đích giới hạn, xác định không gian sân khấu, không nhằm mỹ lệ hoá sân khấu cải lương.



Phục trang những vở cổ lấy phục trang các vở cũ mặc lại, những vở đương đại mặc theo mốt từng giai đoạn xuất hiện trong nhân dân. Giai đoạn 1945 – 1955, các nhân vật bình dân, mặc quần nâu, hai ống lấy dây chun buộc lại dưới cổ chân, mặc áo đen có vẻ là dân anh chị đại ca, giống những gã giang hồ lục lâm. Những cô đào cải lương mặc áo đầm, váy ngắn, tay rộng, đầu thắt nơ, cặp ba lá, đôi khi đào cải lương mặc áo mớ ba, quần áo các bà đồng bóng... phục trang mục đích phân biệt con người sân khấu với con người ngoài đời, sự bắt chước có tính hình thức, không sao chép nguyên bản con người ngoài đời. Phục trang cải lương cố tạo sự khác biệt, nhưng có tính hiện thực phục trang cuộc sống con người đương thời.



ánh sáng sân khấu, trước cửa sân khấu vì không có màn đóng kín, nên giới hạn bằng bốn cái cọc tre trên có gác một cái sà ngang để giới hạn là cửa trước mặt khán giả. Trước cửa treo hai cái đèn bão, đến năm 1952 thường được thay thế bằng đèn măng sông chỉ có một cái, đôi khi đang diễn có một anh chạy ra bơm đèn, sân khấu lại mờ mịt, cảnh diễn tạm ngừng, đèn sáng tiếp tục diễn. ánh sáng sân khấu kháng chiến thường thấy: hai đèn bão trước cửa sân khấu, một đèn hoa kỳ để bán vé, một đèn bão soát vé vào cửa. Ngày ấy mọi người khá ngoan, chỉ chăng dây khái niệm sân bãi, có một hai anh dân quân dứng gác, tay cầm kiếm hoặc súng kíp, mọi người mua vé một trăm phần trăm.. Sau hoà bình 1954, xuất hiện một số thanh niên chui rào, vượt rào trốn mua vé vào xem, hoặc chờ tháo khoán, càng về sau tình trạng này diễn ra càng đông. Sân bãi kháng chiến sơ sài, giản đơn nhưng người xem nhiệt tình, chất người biểu hiện tính tốt đẹp trên các mặt thái độ người đi xem và sự trân trọng.



Mỹ thuật, phục trang, ánh sáng sân khấu kháng chiến biểu hiện lòng nhiệt tình, sự khát khao nghệ thuật, dù mọi tiêu chí còn nhiều bất ổn...



2. Sân khấu cải lương vùng tạm chiếm



Những đoàn cải lương nội thành chạy ra vùng ven tỉnh lị, sau năm 1914 trở về thành lập lại, diễn ra ở Hà Nội và nhiều thành phố phía Bắc. Sân khấu cải lương đô thị xứ Bắc phát triển sau cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám, ranh giới hai chính quyền tương đối ổn định, kinh tế thể chế chính trị. Lực lượng kháng chiến chưa đủ mạnh, có lại thế phòng ngự ở nông thôn, các đô thị tương đối hoà bình. Nhiều đoàn cải lương có điều kiện ra đời, công diễn nghệ thuật theo trào lưu văn hoá mới, mở cửa tiếp nhận các hình thức nghệ thuật Pháp, Châu Âu vào thành phố. Sân khấu cải lương nảy sinh nhiều khunh hướng nghệ thuật, phục vụ các đối tượng công chúng có nếp sống văn hoá thành thị.



Năm 1946 tại Hà Nội còn năm đoàn cải lương, năm 1945 chạy ra các tỉnh, năm 1947 về Hà Nội, đoàn Tố Như, Đại quốc hoa, Nhật tân, ái Liên, Lạc Việt. Các đoàn diễn những vở cải lương lịch sử, bước đầu lấy lại công chúng, sân khấu chưa đổi mới. Thành phố Hải Phòng có đoàn Phụng Khánh, Kim Ngọc, Nhạn trắng, biểu diễn tại thành phố và các vùng ven huyện Kiến An, Vĩnh Bảo... Thanh Hoá, Nam Định còn có các đoàn Tiếng chung, Thịnh Lạc diễn tại thành phố và các vùng ven nội thị. Nghệ thuật cải lương những năm đầu chưa mới. Một số đoàn còn khí thế cách mạng, diễn một số vở có tinh thần yêu nước, sau đi đến thoả hiệp diễn các loại cải lương theo hướng mới. Tuy hai miền Nam Bắc cách xa nhau, chiến tranh gian khổ, đi lại khó khăn, nhưng đường sắt chưa bị phá, nên là tuyến đường duy nhất nối từ Nam ra Bắc. Đường sắt là tuyến hoạt động giao thông hàng đầu. Năm 1950, sử dụng những tuyến đường sắt để vận chuyển, ngoài ra còn đường ô tô ra Bắc... Dù đi lại bất an nhưng còn có đoàn cải lương Nam lưu diễn ra Hà Nội, hoặc qua sự giao thương sách báo, đĩa hát... cải lương Hà Nội diễn biến giống như cải lương Sài Gòn. Từ năm 1948 đến 1954, cải lương Hà Nội diễn các loại:



- Cải lương kiếm hiệp, La Mã, ấn Độ, diễn huyền

- Cải lương hương sa, tuồng Tây

- Cải lương tuồng Tầu, tuồng Phật.



Đây là thuật ngữ phổ biến của giới cải lương ngày ấy thường sử dụng, cải lương kiếm hiệp, La Mã, ấn Độ... thực ra là loại tuồng võ, cải lương có đánh võ trong những vở tuồng cổ: Những nhà ngiên cứu sử dụng thuật ngữ này có hàm ý miệt thị một khuynh hướng cải lương, vì những pha đánh võ xưa thường ly kỳ, rùng rợn, đó là hình thức diễn chinh phục công chúng bằng sự tò mò, kỳ bí. Nhiều diễn viên có miếng đánh rùng rợn, phi đao, thổ huyết, bay người, nhào qua vòng lửa, bắn tên, tổ chức những màn đao kiếm ồn ào... Còn hương sa, diễn huyền... là loại cải lương bi luỵ, lãng mạn, sexy có gì lạ, hầu hết các đoàn cải lương các đô thị thời tạm chiếm chuyên diễn hai loại cải lương khá phổ biến, nổi tiếng thời ấy là: Cải lương Kiếm hiệp La Mã, cải lương lãng mạn. Đoàn cải lương Kim Chung, Nhật Tân, Anh Đệ, Kim Phụng... diễn các vở cải lương kiếm hiệp: Trộm mắt phật, tên cướp thành Bát Đa, Người anh hùng xứ Phổ Lan – những vở này do Ngọc Dư đạo diễn dựng cho đoàn Kim Phụng những năm 40, 50 của thế kỷ XX. Nhiều đoàn cải lương ở Hà Nội diễn những vở kiếm hiệp, dựng lại những vở trên. Nghệ sĩ Ngọc Dư kể lại ông dựng nhiều pha đánh trưởng Kiếm hiệp, làm người bay từ trên cao rơi xuống. Hoặc bay qua sân khấu, lượn qua mắt khán giả... vung gươm sáng loá, nhìn thấy kinh sợ. Hoặc những vở cải lương lãng mạn, hương sa, diễn huyền, diễn có nhảy sex... lại có vở bi lụy, sướt mướt như Mồ cô Phượng, Lá ngọc cành vàng, Lan và Điệp, Tuý hoa vương nữ, Mộng hoa vương, Nhạc mùa xuân, Đôi thiết hài xanh, Đa Lê Na, Rô Mê Ô và Juliette... Những vở diễn trên nói lên các loại cải lương diễn thời tạm chiến của chính các ban hát nghệ sĩ Lệ Thanh, Ngọc Dư tham diễn như Đại quốc hoa, Kim Phụng, ngoài ra còn các đoàn Lim Chung, Nhật Tân, Anh Đệ... Nhiều vở diễn có chiếu phim tả cảnh máy bay bắn phá, người tản cư hoặc tả lại cuộc đại chiến lần thứ II... Sân khấu cải lương nội thành có nhiều hướng diễn mới, xa rời sân khấu cải lương có phần thuần Việt ban đầu.



Nghệ thuật cải lương các đô thị vùng tạm chiếm từ năm 1945 – 1954, đổi mới, toàn diện. Đổi mới vở diễn, hình thức sân khấu, nội dung phản ánh. Sân khấu cải lương Hà Nội những năm 30, có phần bình dị, nghiêm chỉnh diễn những vở lịch sử có tinh thần dân tộc, những vở đương đại có tinh thần yêu nước đi theo chính phủ kháng chiến. Sau những năm bị tạm chiếm đã thoả hiệp, diễn những vở tô vẽ cho lối sống thị dân Pháp, hoặc chính quyền thực dân. Một số vở ru ngủ lòng dân bằng ca diễn bi luỵ, sexy, hoặc đánh võ ly kỳ bí hiểm, than thân trách phận, buồn thương tan nát... không lối thoát. Nhiều vở diễn nói về những mối tình tay ba, tay tư, khắc khoải nhớ mong, mộng mỵ trong nước mắt. Con người mềm yếu chờ thời, thiếu hành động dành lấy tình yêu trong cuộc sống, một số vở mơ vào cõi tiên, cõi phật chờ vận may, thật không tưởng như chyện cổ tích thần thoại Chử Đồng Tử. Chàng xuất thân là người đánh cá dưới sông, có hai đời cha con chỉ mặc duy một cái khố, cha chết di chúc lại cho con, nhưng con lại nhường cha để cuối cùng con phải cởi chuồng. Vậy mà chàng vùi thân dưới cát lại lấy được công chúa, những môt típ ấy kiểu như Thạch Sanh lấy công chúa... Những vở cải lương tuồng Phật, giáo dục người ta không đấu tranh chống lại định mệnh, hãy ở hiền sẽ gặp lành. Điều ấy là không tưởng, ngày nay những ai viết kịch chỉ nhại lại những mô típ của cha ông là vô bổ, con người hôm nay phải hành động, nếu không sẽ bị tiêu diệt, phải bẻ ngược cái chân lý của cha ông để lại cho phù hợp với con người hôm nay, đổi mới cách phản ánh, đó là vì cuộc sống mới. Những vở cải lương vùng tạm chiếm dù viết dưới hình thức nào, đều là ru ngủ lòng dân, lao vào vòng xoáy đam mê hưởng lạc, an phận cam chịu mất nước. Cải lương các đô thị vùng tạm chiếm đã đổi mới nghệ thuật, nội dung vở diễn phong phú các hình thức biểu hiện, thoát khỏi giai đoạn chân phương bình dị, chân thực.



Nghệ thuật cải lương hấp dẫn, hình thức, chạy theo thị hiếu công chúng, đem đến vẻ đẹp mới sân khấu thưởng ngoạn hưởng thụ: vẻ đẹp hình thức, giọng ca ngọt mùi, hình dáng ấn tượng các nhân vật anh hùng và mỹ nữ.



2.1 Nghệ thuật biểu diễn.



Nghệ thuật biểu diễn cải lương vùng tạm chiếm có điều kiện đổi mới toàn diện, chuyển qua giai đoạn mới từ kinh viện carabộ, tuồng bộ, sang ngôn ngữ hành động hiện đại. Nghệ thuật diễn không tìm kiếm hình mẫu động tác diễn các nhân vật tuồng cổ, từ người này truyền lại người kia như bản phô tô từng động tác, đài từ, vũ đạo... Nghệ thuật diễn mang tính tự do, mỗi diễn viên gần thoát khỏi hoàn toàn những động tác mẫu, vai mẫu của thày, tìm hành động ngôn ngữ nhân vật riêng. Nghệ thuật diễn mỗi người được phép sáng tạo vai diễn mới, nghệ sĩ Ngọc Dư trong vai Quách Hoè năm 1950, ông tự nghĩ ra hành động diễn về cái gậy của nhân vật. Cái gậy Quách Hoè chống để bước ra sân khấu trở thành hình tượng có tính triết lý. Đó là cái gậy để hắn dựa vào lao lên những nấc thang danh vọng quan trường, hắn dựa vào sự vững chấc của ban bè, xã hội, khi thành công hắn vứt gậy đi, lộ nguyên hình là tên phản phúc. Đó là lối diễn biểu hiện hành động sân khấu, một phía nhân vật mang tính hình tượng. Ông còn sử dụng ngôn ngữ ngoại hình, mồm méo mỗi khi tức giận, hai bên má co giật, mắt nhấp nháy... biểu hiện tính gian manh hung ác hiểm độc bên trong con người Quách Hoè. Nghệ sĩ ái Liên loại đào nghiêng nước nghiêng thành, bà diễn có nội tâm, giộng ca ngọt mùi, quyến rũ, nhiều gã hoàng tử, quan Tây mê hồn những vai công chúa, A Lê Na hát tiếng Pháp, nhảy tăng gô... Bà kể có lần diễn ở Bắc Giang, đoàn bị trành mật thám giữ lại, bà và ông Hà Quang Định lên bốt nói mấy câu tiếng Pháp vui vẻ, cả đoàn được trả về. Bà Lệ Thanh năm 1946 diễn ở Thanh Hoá bị vợ một tên quan bắt phạt đoàn, bà cùng Bích Được lên ca mấy bài mọi chuyện lại tan đi... Như vậy các nghệ sĩ cải lương có vai trò, vị trí xã hội qua nghệ thuật ca diễn. Các diễn viên diễn theo phong cách ca diễn mới, diễn có phần nội tâm cộng với ngoại hình gây ấn tượng đẹp và giọng ca hay, là ba đặc tính của đổi mới nghệ thuật diễn, tìm ngôn ngữ mới cho nhân vật là những sáng tạo riêng. Ngừng sáng tạo vai diễn ở một số diễn viên ngôi sao khá nghiêm, diễn ngoại hình còn phổ biến, đánh võ giật gân cương lời thoại, pha trò ra ngoài kịch bản như một trào lưu cải lương, họ coi là tài năng xuất chúng.



Bên cạnh một số sáng tạo ngôn ngữ, hành động diễn tiến bộ, sự lộn xộn trong lối diễn khoa trương khá phổ biến. Những vai diễn cương vô bổ đi cùng nạn nghiện hút, cờ bạc trong không ít diễn viên của nhiều ban hát. Có nghệ nhân năm 1980, khai thác những bài cổ nhạc ông nói: tớ phải có phiện thì diễn mới hay, quả thật khi có thứ đó, ông nói, hát từ sáng đến trưa không biết mệt. Nạn đánh bạc khá phổ biến đến mức, các diễn viên diễn hết màn vào làm vài ván, mải đánh đến lượt lên. Người nhắc vở gọi tên, vội chạy ra vuốt râu, thì râu để quên ở bên trong, nên cương luôn “như ta đây là Trương Phì, em của Trương Phi”... cứ như thế cương vai diễn, sau một đoạn chạy vào đeo râu ra diễn vai Trương Phi. Những lối diễn cương pha trò mang tính nghiệp dư khá phổ biến của cải lương tạm chiếm, hình thức diễn này ảnh hưởng tới các diễn viên viên cải lương kháng chiến, nhiều người còn diễn cương, pha trò vô thức. Ngoài ra còn các lọai ca Quảng tự do, nhiều vở tuồng Việt, cương mấy câu hát Quảng, nói mấy câu chú khách gây cười. Nhiều đào kép lại ca diễn than vãn nỉ non sướt mướt, não nuột chìm đắm vào ảo mộng, tan nát cõi lòng, tạo không khí buồn đau trên sân khấu cải lương, hoặc ca nói đệm tiếng Pháp vào cho oai, coi thường Việt ngữ, diễn ngoại hình trong mốt trang phục sexy, gợi tình...



Sân khấu cải lương phong phú, đổi mới nghệ thuật diễn có những thành công, nhưng có những tệ nạn, sau hoà bình phải làm cuộc cải tạo lối sống con người và nghệ thuật. Các đoàn nghệ thuật từ năm 1960 phẩi đề cao khẩu hiệu: xây dựng các đoàn văn công chính quy hiện đại, nhờ đó đến năm 1965, các đoàn nghệ thuật Bắc mới chấm dứt tình trạng nghiệp dư.



2.2. Âm nhạc, mỹ thuật.



a. Âm nhạc.



Sân khấu đổi mới, nghệ thuật diễn mới, hợp thành sự đổi mới ca nhạc, xuất hiện những cặp ca nhạc tung hứng trên sân khấu. Nhiều diễn viên hạng sao thường treo ảnh trước cửa rạp mỗi ban hát, các đào kép phóng to, gợi cảm hớ hênh, hoặc theo trang phục nhân vật... Bằng nhiều hình thức các ban hát chinh phục, hấp dẫn khán giả vào mua vé ngay từ ngoài rạp hát, chưa kể các vai diễn. Có lần Lệ Thanh đi chùa, gặp mấy bà khán giả lại chào chị: con chào Bà ạ! Nghĩa là Lệ Thanh vào vai Trưng Trắc đến mức ra ngoài đời, người ta còn kính trọng như là Bà Trưng Trắc đang hiển hiện trước mặt họ, đây là lời kể của nghệ sĩ. Qua đó, cho thấy sân khấu hấp dẫn công chúng dưới mọi hình thức, có sự hấp dẫn của âm nhạc, không nằm ngoài tổng thể biểu hiện của nghệ thuật cải lương.

Âm nhạc đổi mới nghệ thuật ca diễn hấp dẫn đến mức công chúng đặt thành bài vè những cặp ca nhạc cải lương. Các diễn viên ca các loại bài bản từ ngâm, hò, Oán đến bản Vọng cổ, ca khúc mới... nhiều giọng ca ngọt mùi hấp dẫn. Hát Lý ái Liên, Phan Ninh, Sĩ Tiến pha trò... Nhất Lạng, Nhì Đức... Nhạc Đinh Lạng, Nhạc Tấn, Xuân Vũ, Kim Sinh... tạo ra những cặp bài trùng ca nhạc làm nghiêng ngả sân khấu âm nhạc cải lương Bắc có những tay đàn ngọt, ca hay. Đinh Lạng kéo nhị luồn hơi không ai bằng, ông Vũ Tuấn Đức đàn hết sức bài bản, Nhạc Tấn ghi ta viên, Kim Sinh thập lục, ghi ta ha woai mùi, tiếng đàn như người nói, người ca. Nhiều ban hát còn quảng cáo cả những tay ghi ta lão luyện, song ca đào kép... Ca nhạc cải lương đổi mới, giai đoạn trước nghiêm túc, có tính kinh điển, giai đoạn sau tự do, phóng túng, pha tạp, lai căng. Cải lương ca nhạc Tầu, nhạc Tây, bài bản cổ. Chữ lai căng không có nghĩa là xấu, mà chỉ sự phát triển nhiều dòng ca nhạc vào cải lương. Ca nhạc cải lương mới ra đời là ca nhạc dân gian, bản địa, thuần Việt, khi phát triển đã lai căng ngay. Lai căng như bản chất ca nhạc cải lương trên con đường phát triển âm nhạc, lúc đàu tiếp nhận gần nguyên xi dòng nhạc ngoại lai, sau cải lương hoá, loại bỏ, tiếp thu tinh hoa. Đó là quá trình phát triển ca nhạc cải lương, những hình thức lai căng là giai đoạn đầu cách tân, đổi mới ca nhạc cải lương. Ca nhạc cải lương đi cùng sự cách tân sân khấu, người ca bài Quảng, người đàn không thể khác. Ngày nay, người diễn viên cải lương nhảy hip hop, dàn nhạc không thể đệm bài Vọng cổ... Nếu có đệm bản Oán, thì bản Oán theo nhịp hip hop, đó là sự lai căng, sự tiếp nhận ban đầu ca nhạc cải lương, sau đó, loại bỏ, hoặc tìm đến một bài bản hip hop khác cải lương hoá... Ca nhạc cải lương tạm chiếm, phát huy kỹ thuật độc tấu nhạc cụ ca ngâm hoà cùng giọng ca thành những cặp đàn ca, đôi khi như song diễn trên sân khấu chạy ra ngoài kịch bản. Những hình thức diễn ấy được công chúng hâm mộ, họ thích nghe đàn ca riêng bản Vọng cổ, hoặc bản Oán và các điệu Lý với những đàn ca tài tử ngọt mùi. Ca nhạc cải lương phát triển phần hoà tấu dàn nhạc dựa trên những bài bản làn điệu, làm nền vở diễn, hoặc lấy những bản nhạc nổi tiếng làm nhạc cắt, chuyển cảnh, cao trào, chào khán giả.



Âm nhạc cải lương tiến lên bước mới, có âm nhạc sân khấu, nhạc độc diễn cho ca, tạo không khí và nâng cao các giọng ca thành nghệ thuật ca diễn ngọt mùi. Ca nhạc và sân khấu, tạo sự hấp dẫn, dưới nhiều hình thức đáp ứng công chúng.



b. Mỹ thuật.



Mỹ thuật sân khấu cải lương vùng tạm chiếm có điều kiện đổi mới, giai đoạn trước tả thực ước lệ, bây giờ tả thực như thật. Trang trí đồ vật như thật, những vở cải lương đương đại như Mồ cô Phượng, Lá Ngọc cành vàng, Nửa chừng xuân, Lan và Điệp... vẽ tả thực, đồ vật thật sang trọng.



Mỹ thuật sân khấu cải lương góp phần nâng cao thẩm mỹ hình thức bằng vẻ đẹp lộng lẫy, sang trọng, hấp dẫn từ hình dáng màu sắc đến nội dung bên trong. Nhiều đoàn diễn đồ sộ có dàn đồng ca như Ban Tây Thi, thường mở đầu chào khán giả sân khấu hoành tráng, đào kép đẹp, ánh sáng màu sắc lộng lẫy. Hoạ sĩ vẽ quảng cáo vở diễn chi tiết, công phu, viết danh sách đào kép, băng rôn to treo hai bên rạp... Sân khấu hình thức, mỹ thuật có tính hình thức maketinh, trong trường hợp này hình thức mỹ thuật không hoàn toàn là xấu bởi nó phô trương hình thức nhưng có tính biểu hiện nội dung. Nội dung của hình thức này là đẹp, làm trang trọng vở diễn và nghệ sĩ, mục đích là chinh phục công chúng đến rạp mua vé, một phần thán phục các nghệ sĩ tài sắc. Đó là các hình thức bên ngoài, từ dáng vẻ quảng cáo thương hiệu đến bên trong vở diễn. Các ban hát lấy tiêu chí đẹp, trang trọng tả thực như thật để hấp dẫn. Tuy nhiên có những vở trang trí hình thức thật, có quá nhiều cảnh thay đổi rườm rà, cốt làm đẹp, hình thức không chú ý tả vở diễn. Các ban hát diễn những vở cổ trang trí chung tính, nhiều cảnh chưa đúng với điều kiện hiện thực lịch sử. Mỹ thuật nhằm mỹ lệ hoá sân khấu và cảnh trí. Những vở cải lương kiếm hiệp, La Mã, ấn Độ... đạo cụ binh khí khuyếch đại khiến người xem nhìn thấy đã sợ bởi ấn tượng hình thức. Những cảnh người bay cầu kỳ, công phu phi hiện thực, hoàn toàn mang tính hình thức như vở Sơn hà xã tắc, Tôn Tẫn hạ sơn... Mỹ thuật những vở tuồng Tây, ảnh hưởng kịch nói, nhạc kịch opera, sân khấu trang trí mảng khối ước lệ hiện đại. Tuy nhiên, những mảng bẹt ngày xưa gọn nhẹ, dễ vận chuyển không đồ sộ như sân khấu cải lương những năm cuối thế kỷ XX. Sân khấu cải lương xuất hiện nhiều hoạ sĩ mới: Trọng Can, Mộng Goòng, Nguyên Hồng...



Mỹ thuật đổi nới, phục trang tân thời, hoặc những vở cải lương cổ, phục trang lộng lẫy kim sa, kim tuyến sang trọng như thật. Phục trang các đào kép chinh phục khán giả bằng dáng vẻ bên ngoài, nhiều diễn viên trước khi ra diễn còn chuẩn bị khá công phu bằng hình thức bên ngoài. Các nghệ sĩ xưa hay chơi trội để khán giả chú ý, có lần theo mốt thời trang ông Ngọc Dư bịt mấy chiếc răng vàng trong vai tuồng cổ bước ra sân khấu, bị ông thầy cho một đạp ngã lăn ra, ông vội vào thay răng cho đúng với vai diễn. Đó là cách diễn cương, xử lý tình huống là một trong những tài ứng diễn của người xưa để sửa chữa những sai xót. Nhiều nghệ sĩ diễn những vở cải lương đương đại, phục trang quần áo, túi sách, đồ trang sức đồ thật tân thời, đẹp lộng lẫy làm nhiều người học theo...



Mỹ thuật phục trang tả thực như thật, lộng lẫy, hoành tráng, hấp dẫn. Sân khấu cải lương đổi mới trang trí phục trang, tân thời có tính hình thức đem đến ấn tượng trực quan. Sân khấu trực quan có phần hiện thực thực dụng, chinh phục khán giả nhằm mục đích hiệu quả doanh thu của một thời các ban hát tự do phát triển, tự do tồn tại và tan rã.


Lịch sử cải lương 7
Tuấn Giang

Sân khấu cải lương giai đoạn 1955 – 1965.

Sân khấu Miền Bắc sau nhiều năm xây dựng mới chấm dứt tình trạng nghiệp dư ở các đoàn chuyên nghiệp, sau hoà bình các đợt hội diễn năm 1962 có 14 (1) đoàn sân khấu nghiệp dư tham dự. Hội diễn năm 1965, 42 đoàn tham diễn, có 22 đoàn nghiệp dư, từ năm 1970, các đợt hội diễn những đoàn nghiệp dư không thể so tài cùng sân khấu chuyên nghiệp. Qua các hội diễn, phản ánh thực trạng sân khấu Miền Bắc thoát thai từ kháng chiến và các vùng tạm chiếm mới xây dựng lại, tính chuyên nghiệp còn thấp. Sau nhiều cuộc cải tạo nghệ thuật, xây dựng sân khấu chính quy hiện đại, nâng cao nghệ thuật biểu diễn sân khấu mới phát triển. Nghệ

......................................................................................

(1)Theo công báo hội diễn của Vụ Nghệ thuật biểu diễn năm 1962 - 1970

thuật cải lương đã khắc phục nhiều nhược điểm: diễn cương, dựng vở không có đạo diễn, đưa nhạc đồ rê mi thay nhạc nghệ nhân hò xự sang... Từng bước chuyển hoá nghệ thuật cải lương lên chuyên nghiệp, chính quy, hiện đại, các đoàn nghiệp dư không thể theo kịp, là bước ngoặt lịch sử sân khấu Viêt Nam, sân khấu cải lương phản ánh hiện thực xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức nghệ thuật, phục vụ lớp người mới.Giai đoạn 1955 – 1965, Miền Bắc còn một số đoàn mới thành lập từ Hà Nội đến các tỉnh thành. Năm 1954, Hà Nội có các đoàn cải lương Kim Chung của bầu Long, cuối năm đổi thành đoàn Tiếng chuông vàng Thủ đô. Đoàn sinh hoạt tập thể có ban quản lý, chọn những tiết mục cũ dựng lại, bỏ những lời cương thô thiển để tham dự Đại hội Văn nghệ toàn quốc tháng 12 – 1954. Nghệ sĩ ở lại với Tiếng Chuông vàng Thủ đô tham diễn có: Tuấn Sửa, Khánh Hợi, Kim Xuân, Kim Dung, Tiêu Lang, Tư Giã, Mộng Dần, Bích Được, Triệu Tường, Sĩ Cát, ánh Tuệ, Văn Quý, Bích Liên, Gia Túc, Vũ Nhuận, Hải Bình... Đoàn Tiếng chuông vàng thủ đô, sau đổi thành đoàn Chuông vàng, lấy ngày 10 – 10 – 1954 là ngày kỷ niệm thành lập đoàn.



Năm 1955, đoàn Kim Phụng đấu tranh với bầu chủ xin thành lập Đoàn Ca kịch dân doanh Kim Phụng, đến tháng 6 năm 1957, Ty Văn hoá theo sự thoả thuận các bên, chuyển thành đoàn dân doanh, quản lý tập thể, diễn viên có: Lệ Thanh, Ngọc Dư, Kiều Oanh, Minh Đức, Mộng Dung, Tùng Ngọ, Anh Đệ, Phạm Ty, Lê Chiêm, Điệp Tước, Ngọc Vân... Hà Nội còn một số đoàn cải lương tham dự Đại hội Văn nghệ năm 1958 như Đoàn cải lương TW, Đoàn cải lương tổng cục chính trị thành lập ở chiến khu Việt Bắc, Đoàn cải lương Nam Bộ...



Tổng số đoàn cải lương ở Hà Nội năm 1965 có sáu đoàn, một đoàn cải lương quân đội, sau năm 1965 giải tán đi B. Toàn Miền Bắc có các đoàn cải lương giai đoạn 1955 – 1965, tổng số 14 đoàn. Các đoàn cải lương Bến Tre, Vĩnh Phúc, Đoàn Cải lương Thanh Bình - Thanh Hoá, Đoàn Cải lương An Lạc - Nam Định. Đoàn Cải lương Qyuết Tiến - Thái Nguyên, Đoàn Ca kịch Hoa Mai - Hà Đông, Đoàn Cải lương Thành Long - Hải Dương, Đoàn Cải lương Kim Phụng, Đoàn Cải lương Chuông vàng, Đoàn Cải lương TW. Đoàn Cải lương tổng cục Chính trị, Đoàn Cải lương Nam Bộ, Đoàn Cải lương Việt Hồng - Hải Phòng, Đoàn Cải lương Liên khu V, Đoàn thiếu niên Chuông vàng Thủ đô.



Sân khấu cải lương sau hoà bình lập lại phát triển khá mạnh, nhiều đoàn cải lương nghiệp dư thành lập diễn đua tài ngang ngửa cùng các đoàn chuyên nghiệp. Đoàn cải lương Hợp tác xã cơ khí 8/3, đoàn cải lương Hai Bà Trưng, quận hai bà, Đoàn cải lương nhà máy dệt 8/3... diễn các vở: Võ Thị Sáu, Mỵ Châu Trọng Thuỷ... phần lớn là diễn viên cải lương ở các ban hát về hoạt động biểu diễn nên họ dám tham diễn cùng đoàn chuyên nghiệp, phải sau nhiều năm học tập nâng cao nghệ thuật diễn, các đoàn cải lương tập thể, Nhà nước mới bỏ xa các đoàn cải lương nghiệp dư ở các xí nghiệp, hợp tác xã.

Sân khấu cải lương Miền Bắc, đổi mới nghệ thuật diễn, bỏ nạn diễn cương, một số đoàn tư nhân như Thành Long - Hải Dương, Lạc Việt Hà Nội phải giải tán... bị các Ty văn hoá ra lệnh bãi bỏ vì những lộn xộn tranh cướp đào kép, diễn cương...



Những đoàn cải lương tập thể, Nhà nước được Nhà nước quan tâm liên tục mở các lớp học nâng cao tư tưởng chính trị, lập từng giai cấp, lối sống. Mỗi đợt hội diễn đề ra các tiêu chí vở diễn, nghệ thuật diễn, các đoàn cách tân nghệ thuật diễn, sân khấu âm nhạc, mỹ thuật phục trang... Kịch bản, yêu cầu những năm đầu cải tạo xây dựng phong cách cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những vở cũ của các đoàn dựng lại diễn theo đạo diễn, bỏ diễn cương. Tiếp theo diễn những vở cải lương phản ánh kịp thời cuộc sống mới. Hội diễn năm 1962, các đoàn cải lương tham diễn các vở: Võ Thị Sáu – Phạm Ngọc Truyền, Đoàn Cải lương Nam Bộ. Vở Quang Trung, kịch bản Trúc Đường, Đoàn Cải lương quân khu IV. Vở Nghĩa quân Lam Sơn, tác giả Hà Khang, Đoàn Cải lương Thanh Bình - Thanh Hoá, vở Kiều - Việt Dung, Sĩ Tiến Đoàn Chuông vàng - Hà Nội. Vở Tú Uyên Giáng Kiều, tác giả Kính Dân, vở Nam kỳ khởi nghĩa, Đoàn cải lương Nam Bộ.



Qua sáu vở cải lương, sáu đoàn tham dự Hội diễn sân khấu Miền Bắc năm 1962, thấy số lượng các đoàn giảm sút so với con số những đoàn cải lương trước đó. Tuy nhiên có đoàn giải tán, có đoàn chưa đủ mạnh để dự hội diễn. Số vở phản ánh kịp thời cuộc sống mới như mong muốn của ban chỉ đạo cải tạo các đoàn cải lương còn ít, chỉ có một vở viết về con người thời chống Pháp, còn những con người đang sản xuất, đấu tranh thống nhất đất nước chưa xuất hiện trên sân khấu cải lương tại hội diễn.



Sang Hội diễn sân khấu Miền Bắc năm 1965 – 1966, vào thời điểm cuộc chiến tranh giải phóng lên cao, sân khấu cải lương có bốn đoàn tham diễn.



Đoàn Cải lương Nam Bộ (2), vở Giữ đất, tác giả Công Thành, Bá Huỳnh. Đoàn Cải lương Nam Hà vở Lưới Biển, Văn Phúc. Đoàn Cải lương Thái Bình, vở Đuổi sóng – Phạm Ngọc

Truyền, Lê Như Tiếp. Đoàn Cải lương Hoa Mai, vở Bên

...............................................................................

(2) Theo công báo của Vụ Nghệ thuật năm 1965



xác máy bay của Mai Thăng. Tại Hội diễn Miền Bắc năm 1965, có 4 đoàn cải lương tham dự, 4 vở diễn là những vở phản ánh kịp thời hiện thực con người cuộc sống mới. Đây là sự thánh công sân khấu cải lương Miền Bắc đi vào đề tài cuộc sống mới, nâng cao nghệ thuật diễn sân khấu cải lương chuyên nghiệp.



3.1. Nghệ thuật diễn.



Năm 1958, các Ty văn hoá phát động phong trào ba cải: cải rạo tư tưởng, cải tạo tổ chức, cải tạo tiết mục biểu diễn. Đây là chủ chương chung nằm trong kế hoạch hai năm đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, cải tạo tư bản tư doanh. Các đoàn cải lường tư nhân cải tạo chuyển vào đoàn tập thể là đoàn dân doanh, đến năm 1965 dần chuyển thành đoàn Nhà nước, diễn viên vào biên chế. Năm 1961, Miền Bắc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, xây dựng kinh tế công nghiệp đại, đấu tranh thống nhất đất nước, Miền Bắc là hậu phương xã hội chủ nghĩa. Nhà thơ Tố Hữu nói “Xuân 61 đỉnh cao muôn trượng”. Sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đổi mới nâng cao, các đoàn cải lương đổi mới nghệ thuật diễn sân khấu hiện thực xã hội chủ nghĩa, phục vụ công nông binh.



Năm 1958, các vở cải lương còn nhiều hương sa, La Mã, diễn huyền bị phê phán kịch kiệt như Tên trộm thành Bát Đa, Lộ Miêu Duy Liên của Hữu Quý, Say hương đồng nội, Sĩ Cát... bị phê phán là vàng vọt uỷ mỵ, thiếu tính giai cấp, lai căng. Thuật ngữ lai căng ở đây là xấu xa bị lên án, vì phóng tác theo những tác phẩm văn học phương Tây đây là quan niệm thời ấy. Trước tình hình mới đoàn cải lương Kim Phụng dựng thí điểm vở cải lương theo bài bản, kịch bản mới, diễn thuộc kịch bản theo đạo diễn, mời nhạc sĩ viết nhạc. Vở cải lương Bà mẹ bên sông Hồng của Phạm Ngọc Truyền sáng tác năm 1959, sau này tham dự Hội diễn năm 1962, gọi là vở Bà mẹ sông Hồng. Lệ Thanh vai bà mẹ, đoạt huy chương vàng, Kiều Oanh, Phạm Ty, Tùng Ngọc, huy chương bạc cho các vai phụ. Đây là bước đổi mới toàn diện cải lương Kim Phụng, kịch bản phản ánh người mẹ thời chống Pháp coi là con người mới, ca diễn hiện thực. Lệ Thanh phải nhập vai hết sức gian khổ để hoá thân thành bà mẹ làng quê kháng chiến bên sông Hồng. Chị phải đi theo dáng đi bà già chân quê, nói đài từ, trang phục, mắt nhìn... là bà lão dân quê, khi Lệ Thanh còn 29 tuổi. đây là cuộc hoá thân đầy gian khổ của người diễn viên thời tạm chiếm quen diễn những cô gái trẻ đẹp, công chúa, nàng tiên... Nhờ khổ công, nghệ thuật diễn chân thực, Lệ Thanh và đoàn đã thành công. Vở diễn đã tồn tại từ năm 1958 đến năm 1980, là vở diễn thành công nhất của đoàn Kim Phụng. Đoàn Nam Bộ công diễn cải lương vở mới: ánh lửa của Đoàn Giỏi, Văn Cao viết nhạc. Đoàn Chuông vàng vở Mùa hoa đào, Nguyến Bắc, Nguyến Đình Phúc soạn nhạc, Đoàn Cải lương Kim Phụng, dựng vở Tình Bạn - Nguyễn Bắc, âm nhạc Nguyễn Xuân Khoát... Toàn Miền Bắc giấy lên phong trào diễn cải lương đề tài cuộc sống, con người mới, Đoàn Hoa Mai vở Bên xác máy bay, kịch bản Mai Thăng, âm nhạc Nhạc Tấn, mỹ thuật Huy Văn, đạo diễn Mạnh Tưởng. Đoàn cải lương Thái Bình, Nam Hà, Thanh Hoá... diễn những vở đề tài cuộc sống mới, có sáng tác âm nhạc, mỹ thuật đạo diễn dựng vở theo phương thức mới.



Nghệ thuật diễn cải lương Bắc sau hoà bình năm 1954 đến năm 1965, chấm dứt tình trạng nghiệp dư, biểu diễn chuyên nghiệp đi sâu nội tâm nhân vật, diễn có ngôn ngữ hành động nội tâm tâm lý, hành động ngoại hình, tiếp cận sân khấu kịch nói theo hướng sân khấu chính quy, hiện đại. Các vở diễn phản ánh tinh thần cuộc sống con người mới, đề cao, khuyến khích những vở viết về cuộc sống mới, nổi bật là thế mạnh sân khấu cải lương xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật diễn theo hướng hiện thực tâm lý, nhập thần vai diễn, xuất hiện thế hệ diễn viên mới, thay thế thế hệ diễn viên thời tạm chiếm. Những người cũ chỉ còn ,một số diễn viên ngôi sao, hoặc người tay nghề cao ở lại là trụ cột trong các đoàn cải lương Bắc.



3.2. Âm nhạc, mỹ thuật



a. Âm nhạc



Những năm đầu hoà bình, âm nhạc cải lương còn lai căng, nhiều nhạc công tìm những bản nhạc Tầu, nhạc Tây nổi tiếng hoà tấu làm nhạc kết thúc, hoặc chuyển cảnh nghe quá quen thuộc nhàm chán. Khi các diễn viên học tập ba cải, các loại ca nhạc ngoại lai bị loại bỏ, riêng loại nhạc Tầu không ai nói gì, còn lại nhạc Tây là nguy hiểm. Ca nhạc cải lương thực sự đổi mới từ năm 1959 – 1960, các đoàn mời nhạc sĩ viết nhạc dựng vở theo đạo diễn. Âm nhạc cải lương có hai hình thức hoà tấu nhạc nền, hoà tấu bài bản cải lương vào vở diễn.



Năm 1959, Đoàn Chuông vàng dựng vở Mùa hoa đào, Nguyễn Đình Phúc sáng tác nhạc, âm nhạc phỏng theo cổ nhạc cải lương những có tính nhạc cảnh cải lương. Vở Tình Bạn, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát viết nhạc, âm hưởng dân ca, chưa vào cải lương. Ông viết nhạc nền bài ca theo hình thức oprette. Âm nhạc cải lương xứ Bắc ngày ấy có nhạc sĩ Ngọc Thới, Đắc Nhẫn viết mang âm điệu bài bản cải lương được giới nghiên cứu đồng tình, ông viết các vở: Ông Tư ngang, Nhà gác hai, Đắc Nhẫn, Ngọc Thới viết nhạc cho các vở Bà mẹ sông Hồng, Người con gái đất đỏ, Kiều... công nhận là chính giới cải lương. Bên cạnh những nhạc sĩ sáng tác bài bản, còn lớp nghệ nhân sáng tác như Đinh Lạng, Kim Sinh, Sĩ Cát, Xuân Hỷ... những nhạc sĩ xuất thân từ sân khấu cải lương sáng tác được hâm mộ, vì chất nhạc mang âm điệu cải lương. Những sáng tác có tính bài bản, đổi mới ca nhạc đầu tiên của các nghệ nhân, nhạc sĩ được các giới và công chúng đồng tình. Những nhạc sĩ này có ưu điểm sáng tác khí nhạc, ca khúc mới đậm chất cải lương, nhưng có những hạn chế người trong cuộc không nhìn thấy. Những sáng tác ban đầu của các nhạc sĩ như Hoàng Vân, Xuân Khoát, Lê Yên, Nguyễn Đình Phúc... họ mang đến cải lương âm nhạc mới, là tân nhạc, xưa nay cải lương thường hình thành hai chất tân cổ nhưng vào cái thời đề cao dân tộc nên không được ủng hộ. Mặt khác các nhạc sĩ “liên doanh” với âm nhạc sân khấu cải lương chưa có hướng sáng tác đúng, chưa biết viết nhạc theo cấu trúc hình thức nào, định oprette, opera hoá là sai. Còn các nhạc sĩ xuất thân từ cải lương, sáng tác hợp thời, nhưng họ thiếu tạo chất âm nhạc mới, giai điệu quá cũ, quá quen thuộc chưa tạo chất hiện đại trong khí nhạc và ca khúc cải lương. Do thiếu cấu trúc chủ đề âm nhạc hiện đại, sự diễn tả, biểu hiện tình huống, chân dung tâm trạng nhân vật... không cao, phần lớn những mảng khí nhạc chỉ là nhạc nền cho diễn, chưa phân định rõ nhạc nền, nhạc diễn tả. Phần khí nhạc các nhạc sĩ chưa có hướng đúng đặc tính ca nhạc cải lương, cần chiều sâu biểu hiện những mảng khí nhạc - âm nhạc diễn tả. Ca khúc là bài hát tâm trạng, hoặc những bài tạo không khí đổi mới cảm xúc sân khấu, đó là giá trị của ca – nhạc cải lương.



Nghệ thuật ca, lớp diễn viên cũ đang là trụ cột hạng sao các đoàn, ca chưa mới, họ phải loại bỏ các lối ca hình thức sáo mòn xưa cũ. Ca mới có nội tâm diễn cảm đang từng bước chuyển đổi trong các ca sĩ cũ. Lớp ca sĩ mới, ca diễn tươi trẻ nhưng còn non về kỹ thuật, sự diễn cảm. Nghệ thuật ca những năm đầu ba cải còn nhiều lúng túng, từ năm 1960 – 1965, cải lương Bắc đổi mới toàn diện, có hướng ca diễn hiện thực. Lớp ca sĩ cũ trao lại kinh nghiệm ca cho lớp trẻ, kết hợp sự thâm nhập cuộc sống mới tạo lớp diễn viên trẻ bên cạnh các ngôi sao dần đổi mới ca nhạc cải lương.

Âm nhạc, ca cải lương, sau hoà bình lập lại từng bước đổi mới theo sự cải cách sân khấu cải lương. Sân khấu và ca nhạc phản ánh hiện thực cuộc sống con người Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hướng tới xây dựng sân khấu cải lương chính quy hiện đại.



Mỹ thuật, phục trang.



Mỹ thuật phục trang đổi mới theo nghệ thuật ca diễn, dưới thời tạm chiếm các hoạ sĩ tả thực cầu kỳ chi tiết, phô trương hình thức, mỹ thuật sau hoà bình sân khấu cải lương thể hiện vở diễn tả chân, hiện thực lịch sử, hiện thực cuộc sống mới. Sang giai đoạn sau xuất hiện thế hệ hoạ sĩ trẻ, bút pháp trang trí mới gần như thay thế hoàn toàn thế hệ hoạ sĩ trước như Mộng Gòong, Trần Đình Thọ, Trần Văn Cản, Mộng Goòng... Xuất hiện thế hệ mới: Nguyễn Hồng, Huy Văn, Phạm Tăng, Phùng Huy Bính, Bùi Huy Hiếu, Trọng Can... đổi mới mỹ thuật cải lương.



Mỹ thuật đi sâu tả chân ước lệ mảng khối, những vở lịch sử cấu trúc mô típ, chủ đề sâu sắc, cảnh trí tạo bề thế hào khí mang tính hiện thực. Mỗi cảnh thể hiện chủ đề gợi tả người xem, từng mảng màu cấu trúc tổng thể vở diễn biểu hiện tư tưởng tình cảm tác phẩm sân khấu. Những vở cải lương đương đại vẽ mảng khối tả thực khái quát hiện thực tạo không gian sân khấu rộng, không chi tiết cầu kỳ, nhưng gợi tả không khí cuộc sống mới. Các hoạ sĩ có tông màu hoà sắc cải lương mang phong cách cải lương đồng bằng Bắc Bộ, một phát hiện mới kỹ thuật cải lương những năm 60 của thế kỷ trước.



Mỹ thuật đẹp, hoành tráng, hoà sắc dịu êm cùng trang phục hiện đại, những mẫu nhân vật cải lương cổ áo tay nước, tay thụng cải tiến gọn lại không cổ lỗ. Những nhân vật đương đại phục trang gần với phục trang ngoài đời, không loè loẹt, cầu kỳ. Phục trang giản dị với nghệ thuật ca diễn chân thực đem đến thẩm mỹ sân khấu hiện thực. Mỹ thuật cải lương tả thực ước lệ, tạo không khí vở diễn chân thực bình dị.



III. Sân khấu cải lương Miền Trung

Giai đoạn 1945 – 1955



Cải lương Miền Trung những năm 45, nhiều ban hát từ Nam ra còn lưu diễn ở lại, tan rã, hoặc ra Bắc như Kim Thoa, Nhạn trắng, Phước Cương, Việt Kịch Năm Châu... Tại Miền Trung có các đoàn cải lương hoạt động đến năm 1955, biểu diễn doanh thu tại các tỉnh.



Nha Trang có Phước Hội, Đà Nẵng có đoàn Hoà Bình, Phước Tường, Quy Nhơn có đoàn Nhạn trắng... những đoàn cải lương Miền Trung thường diễn cải lương tuồng cổ, tuồng Việt, ít đoàn diễn cải lương đương đại. Từ năm 1955 – 1965, mấy năm đầu tiếp tục đoàn cải lương Nam ra diễn, tại Phú Yên có đoàn Phú Yên, do một số nghệ sĩ Nam Bộ lập đoàn diễn quanh các tỉnh Quy Nhơn. Khi ra đời Mặt trận Dân tộc giải phóng, chiến sự diễn ra ác liệt các đoàn cải lương không lưu diễn ra Miền Trung. Những đoàn cải lương cũ hoạt động ở Đà Nẵng, Nha Trang, năm 1960 có thêm đoàn Tấn Tài I, II, do vợ nghệ sĩ Tấn Tài làm bầu đoàn Tấn Tài II, diễn ở Nha Trang. Qua năm 1964, các đoàn tan rã, số diẽn viên bài chòi, cải lương ở địa phương chạy lên chiến khu vào đoàn Ca kịch Liên khu V, trong đoàn có bộ phận cải lương diễn ở chiến trường Miền Trung. Sân khấu kháng chiến Miền Trung, sau năm 1965, bổ xung nhiều diễn viên từ Bắc vào diễn phục vụ bộ đội và đồng bào khu V. Những tư liệu về cải lương Miền Trung còn nhiều khiếm khuyết chưa có điều kiện làm sáng tỏ thực tiễn cải lương Miền Trung.



Sân khấu cải lương Miền Trung phát triển mạnh dân ca bài chòi, kịch dân ca và tuồng, còn cải lương ít tồn tại, phát triển. Cải lương không đặc sắc suốt từ khi ra đời đến những giai đoạn sau cải lương Miền Trung chỉ xuất hiện một số năm, sau đó không tồn tại, không có nhiều khunh hướng, phong cách đặc sắc. Ngay giai đoạn đất nước thống nhất, cải lương Miến trung ít phát triển, từ những năm cuối thế kỷ XX, đến nay Miền Trung không có cải lương. Đó là nét đặc biệt sân khấu cải lương ít tồn tại, phát triển trong đời sống văn hoá nhân dân các tỉnh thành Miền Trung.


Lịch sử cải lương 8
Tuấn Giang

Chương V



Sân khấu cải lương từ 1965 đến 1985



I.Sân khấu cải lương giai đoạn 1965 – 1975

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng Miệt Nam ra đời tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam khắp các vùng nông thôn Trung – Nam Bộ. Ngày 5 – 8 1964, sự kiện Vịnh Bắc Bộ mở đầu cuộc chiến tranh trên cả hai miền Nam – Bắc. Năm 1965, cuộc chiến tranh bước vào thế phản công đến năm 1968, chiến tranh ác liệt kéo dài đến năm 1970, chuyển sang thế giằng co, hoà đàm, năm 1975 thống nhất đất nước. Hai miền Nam Bắc thông thương có điều kiện giao lưu hoà nhập văn hoá, nghệ thuật tạo điều kiện phát triển sân khấu và nghệ thuật cải lương.

Hoạt động sân khấu cải lương chia thành hai giai đoạn, giai đoạn một từ 1965 – 1975, nghệ thuật cải lương hai miền khác biệt, cải lương Nhà nước xã hội chủ nghĩa (cải lương Bắc), cải lương vùng tạm chiếm Miền Nam, cải lương vùng giải phóng. Mỗi vùng miền có phương thức hoạt động biểu diễn định hướng mục đích nghệ thuật khác nhau nhằm tồn tại phát triển sân khấu cải lương. Cải lương Bắc vững mạnh toàn diện xây dựng thành công nền sân khấu xã hội chủ nghĩa, thường xuyên tổ chức các hội diễn nâng cao nghệ thuật diễn, hướng đề tài kịch bản phản ánh hiện thực cuộc sống. Những vở cải lương cổ hiện đại hoá, hiện đại hoá phương pháp dậo diễn dựng vở, hiện đại hoá bút pháp biên kịch, dù nói tích xưa nhưng nội dung còn nóng bỏng tính thời sự, thời đại là yêu cầu của cải lương Bắc. Những vở cải lương đương đại đi sâu phản ánh hiện thực cuộc sống con người mới, cụ thể hoá các chủ chương đường lối chính sách vào vở diễn. Nhiều vở cải lương đề cập đến những con người nơi đầu sóng ngọn gió, nơi mũi nhọn cuộc sống lao động sản xuất chiến đấu của người nông dân, công nhân, anh bộ đội, người trí thức hướng tới cuộc chiến đấu cùng đồng bào Miền Nam. Một số tác giả viết về anh bộ đội giải phóng chiến đấu trong lòng địch, người tình báo viên, o biệt động, những tấm gương anh hùng, dũng sĩ... Nhiều vở diễn có giá trị động viên tinh thần lao động sản xuất, chiến đấu, phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu tranh của quân dân Miền Nam anh dũng, kiên cường. Sân khấu cải lương Bắc trở thành thế mạnh viết kịch bản, biểu diễn những vở đề tài cuộc sống mới, nghệ thuật diễn nội tâm sâu sắc ca diễn truyền cảm... Sân khấu cải lương Bắc đạt nhiều thành tựu đổi mới nghệ thuật diễn, có thế hệ diễn viên ca diễn nắm chắc kỹ thuật bài bản, xây dựng thành công nghệ thuật cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa.



Miền Nam chia thành hai khu vực chính quyền giải phóng, cải lương hướng vào cuộc chiến dấu, bảo vệ quê hương, nhiều đoàn được chi viện đội ngũ tác giả, diễn viên Miền Bắc vào Nam xây dựng sân khấu hiện thực xã hội chủ nghĩa. Vùng giải phóng các tỉnh dưới đồng bằng Nam Bộ thành lập các đoàn cải lương gần như mỗi tỉnh một đoàn, nghệ thuật diễn có điều kiện nâng cao các mặt đáp ứng bộ đội và nhân dân địa phương. Nhiều đoàn cải lương trong các đoàn văn công giải phóng có hàng chục vở diễn mới, phản ánh kịp thời tinh thần chiến đấu giải phóng đất nước, bảo vệ quê hương. Những vở diễn kịp thời ngợi ca người phụ nữ, nhân dân giữ đất, phá ấp chiến lược, động viên thanh niên vào quân giải phóng, hướng tới nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Những vở cải lương vùng giải phóng, những vở cải lương Bắc thiết thực tuyên truyền cho hai nhiệm vụ: đẩy mạnh sản xuất, làm hậu phương vững chắc giải phóng Miền Nam. Sân khấu cải lương là văn nghệ tuyên truyền mọi chủ chương đường lối chính sách của Miền Bắc, Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam, phục vụ đắc lực cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Có một thời văn nghệ tuyên truyền, nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực minh hoạ cuộc chiến, minh hoạ chủ chương chính sách, ngợi ca một chiều, nhận thức đơn luận duy lý nhưng có hiệu quả. Hiệu quả mà sân khấu cải lương đem lại hướng mọi người không sợ gian khổ hy sinh, sẵn sàng xông vào cái chết, gạt bỏ tất cả nỗi riêng tư ở phía sau, thực hiện mệnh lệnh chiến đấu vì Tổ quốc. Sự tác động của công tác tuyên truyền chính trị, sự phụ hoạ của văn hoá, nghệ thuật tạo thành dư luận xã hội biến thành sức mạnh chiến đấu trong từng con người chống lại lối sống hưởng lạc cá nhân, chỉ có nhiệm vụ ở phía trước. Con người và đồng đội trở thành mối quan hệ cộng đồng gắn bó cao đẹp. Sân khấu cải lương giải phóng góp phần cùng đồng bào Miền Nam xây dựng cuộc sống mới tiến lên dành độc lập, thống nhất đất nước.



Sân khấu cải lương vùng tạm chiếm, các đoàn hoạt động mạnh tập trung nhiều diễn viên tài năng, khi cuộc chiến tranh còn non yếu các đô thị yên ổn, nhiều đoàn diễn những vở cải lương quy mô có tính nghệ thuật, dân tộc. Cuộc chiến tranh ác liệt xâm nhập vào các thành phố một số đoàn tan rã, nhiều cuộc biểu diễn thiếu tính nghệ thuật, có không ít diễn viên cải lương an phận diễn cầm chừng, hoặc diễn chạy theo thị hiếu công chúng cải lương hương sa, diễm huyền, sexy, võ hiệp... Cá biệt có nghệ sĩ, diễn viên cải lương, ca nhạc nhẹ hát động viên lính cộng hoà đánh phá ném bom Miền Bắc. Tại các đô thị Miền Nam chiến sự ác liệt, lại có diễn viên, tác giả viết những vở kêu gọi tinh thần giải phóng dân tộc, tham gia biểu tình đòi thống nhất đất nước... Đứng giữa cuộc chiến, con người thường có những hành động khác nhau bởi sự tác động tâm lý mất điểm tựa vào từng thời gian, giao động đầu hàng, vững bước tiến lên luôn gặp sức cản bản năng. Vào thời khắc ấy, nhiều giải thưởng các hội ngừng hoạt động, sân khấu cải lương bồng bềnh theo thời cuộc. Qua chiến tranh như trận sóng thần ngổn ngang đổ vỡ, còn lại tình người trân trọng yêu thương. Giai đoạn sân khấu cải lương 1975 – 1985, những biểu hiện mới là bước ngoặt lịch sử đất nước trong trang, nghệ thuật cải lương thăng hoa rực rỡ.



Sân khấu cải lương qua mỗi giai đoạn lịch sử để lại những giá trị tinh thần văn hóa, nghệ thuật cao quý. Nghệ thuật cải lương mỗi giai đoạn lịch sử làm nên những thành quả xây dựng văn hoá tinh thần con người, hướng tới cái mới



1.Sân khấu cải lương vùng giải phóng



Sân khấu cải lương giải phóng trưởng thành vững mạnh, các đoàn tương đối ổn định hoạt động biểu diễn phục vụ bộ đội giải phóng, ảnh hưởng tới các vùng ven đô. Nhiều vở cải lương mới viết về cuộc sống chiến đấu của nhân dân, anh giải phóng quân đem đến hào khí, nghệ thuật mới được công chúng hưởng ứng. Nhiều đêm diễn có hàng ngàn người xem. Dù văn nghệ giải phóng không thể sánh kịp văn nghệ cải lương các đô thị về diễn viên ngôi sao, hình thức sân khấu, nhưng những vở diễn đầy sức sống mới, nghệ thuật diễn chân thành xúc cảm đã hấp dẫn hơn cải lương vùng đô thị.



Sân khấu cải lương giải phóng gồm các đoàn Đồng Nai, Bến Tre, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, Văn công giải phóng, T4... diễn những vở đề tài cuộc sống mới, những vở lịch sử... hướng về giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Theo chân anh giải phóng, từng bước trên chiến trường, các đoàn cải lương giải phóng biểu diễn ra những vùng chiến sự các liệt, nhiều nhạc sĩ, diễn viên, cán bộ đoàn hy sinh anh dũng trên chiến trường. Đội cải lương trong đoàn văn công giải phóng Nam Bộ, nhiều đêm diễn sát căn cứ giặc, lính nguỵ đến xem đoàn diễn, cảm hoá một số người dân, lính nguỵ hưởng ứng Mặt trận Dân tộc giải phóng. Đoàn Văn công Khu IX, năm 1970 diễn vở Hương bưởi, do các diễn viên Trọng Hữu, út Nghệ, út triều, hai ớt... Vở diễn thành công, góp phần cổ vũ tinh thần chiễn đấu gần đến ngày chiến thắng. Năm 1971, Đoàn Văn công R (chiến khu) vùng Đồng Tháp Mười, đoàn T4 diễn vở Cánh chim soi gương,trước đã diễn tại Sài Gòn năm 1966, do một nhóm nghệ sĩ của Hội nghệ sĩ ái hữu tổ chức, sau đêm diễn bị truy xét, một số người chạy ra vùng kháng chiến. Năm 1973, đoàn dựng vở Cây sầu riêng trổ bông của Trương Bỉnh Tòng, diễn tại các vùng ven Sài Gòn – Gia Định, đây là đoàn cải lương bán sát các chiến trường, có thời do ông phụ trách, nhiều đêm diễn được nhân dân các vùng đến xem hàng ngàn người cổ vũ đoàn. Dưới tỉnh, các đoàn cải lương giải phóng theo sát chiến trường. Ngày ấy, có khẩu hiệu nổi tiếng từ câu nói của bà Nguyễn Thị Định: một tấc không đi, một ly không rời, bám thắt lưng địch mà đánh. Các đoàn văn công ca múa, nhạc kịch, cải lương luôn đồng hành cùng anh giải phóng diễn động viên họ trước lúc ra trận, diễn ngay trên trận địa, diễn mừng công sau chiến thắng... Đoàn cải lương Bến Tre năm 1966 vở Ông Năm hạng của Đoàn Tứ. Năm 1968 vở Cây dừa đỏ của Trần Hà. Năm 1975 vở Rừng ông gốc – Huỳnh Thị Đằng... Năm 1961 đến năm 1975, đoàn cải lương Sông Hậu diễn các vở: Người con gái đất đỏ, Máu thắm đồng Nọc Nạn. Các đoàn cải lương giải phóng có 11 đoàn, số diễn viên có 82 người, số vở diễn 26 vở cải lương đề tài cuộc sống mới. Diễn viên cải lương vùng giải phóng có nghệ thuật diễn khá, không có hạng sao nhưng là sao của bộ đội, thanh niên xung phong trên chiến trường. Đoàn cải lương Sóc Trăng (1) thành lập ngày 1 – 5 – 1961, có sáu diễn viên: Ba Thu, Bảy Đủ, Việt Hải, Hữu Nghĩa, Hoàng Nam trưởng đoàn tuyển chọn, làm thủ tục lên ban tyuên huấn duyệt. Đoàn diễn các vở từ năm 1961 đến năm 1975, như Giữ đất, Hương bưởi, Người con gái đất đỏ, Cây dừa đỏ, Lá thơ cô Hiền của Thanh Hiền, Dòng máu của Trần Nam, Đâu có giặc ta cứ đi... Năm 1965 đoàn có 20 người đến năm 1969, hy sinh 10 người. Sau đoàn bổ xung 35 người đến ngày 13 – 12 – 1972, đoàn bị dội bom B52, chỉ còn lại 3 người là: Tám Gửi, Hoàng Nam, Hoàng Đông. Đến năm 1975, nhập lại với ca múa nhạc kịch đổi tên là đoàn Văn công Hậu Giang. Đây là đoàn cải lương chịu đựng trên chiến trường ác liệt nhất, hy sinh số người lớn nhất. Còn nhiều đoàn cải lương trong chiến tranh ác liệt, những người diễn viên là dũng sĩ hy sinh dũng cảm, phục vụ bộ đội trên chiến trường. Những gian khổ hy sinh mà người diễn viên phải chịu đựng chỉ những người có tinh thần thép mới vượt qua những ngày đói khát, đạn cối, bom bi, bom toạ độ, bom B52... Ai đã qua một trận bom B52, sống sót trở về thì nỗi ám ảnh sợ hãi kinh hoàng, kéo dài hàng mấy chục năm sau còn khiếp sợ. Vậy mà những cô gái tuổi mười tám đôi mươi, những chàng trai búng da sữa vào văn công giải

................................................................................

(1) Theo đoàn trưởng Hoàng Nam kể lại ký nhận với tác giả.

phóng, biểu diễn dưới làn mưa bom bão đạn, đó là ý chí con người dũng cảm bằng không sẽ chạy vào thành, chạy sang phía bên kia, sung sướng hơn khi ở với cái chết rình rập từng giây. Đó là tình cảm, tinh thần cao cả của người diễn viên các đoàn văn công giải phóng, sống và làm việc tất cả vì đất nước thân yêu.



Hoạt động biểu diễn các đoàn văn công cải lương giải phóng còn nhiều thiếu thốn, hình thức sân khấu, nghệ thuật diễn... chưa cao, nhưng các đoàn diễn ở đâu đem đến công chúng nhịp sống mới. Qua hàng chục vở diễn của các đoàn hầu hết là những vở đề tài cuộc sống mới,

đây là bước ngoặt lịch sử cải lương giải phóng, diễn đề tài cuộc sống mới bằng tình cảm chân thực và tinh thần anh dũng trên chiến trường Nam Bộ.



1.1 Nghệ thuật diễn



Từ năm 1965 đến năm 1975,các đoàn văn công giải phóng được trang bị máy phát điện, diễn có đèn điện. Ban ngày diễn dưới các hầm địa đạo chứa 200 – 300 người xem chưa hết chỗ, đèn bật sáng, một số điểm diễn ngoài trời không dám bật đèn nên thường diễn ban ngày. Vào năm 1972, có những thời gian hoà đàm các đoàn diễn dưới chân bốt đồn giặc ta và ngụy cùng xem, ngay những thời gian thuận lợi nhất sân khấu trang trí đơn giản, gọn nhẹ, không hoa lá màu mè.



Do hoàn cảnh chiến trường khó khăn, các diễn viên không có điều kiện nâng cao nghệ thuật diễn, sáu tháng mùa khô hành quân và diễn phục vụ bộ đội đến tận chiến hào, có nơi phục vụ từng thương bệnh binh. Sáu tháng mùa mưa về cứ, dựng tiết mục và phục vụ bộ đội trong cứ... Thời gian diễn không kể ngày đêm, nên mỗi vở dàn dựng hết sức nhanh gọn, luyện tập và diễn như một thói quen. Các nghệ sĩ diễn bằng kinh nghiệm và lòng nhiệt tình, các diễn viên thường không học qua trường lớp, họ học các thày cải lương từ bên ngoài có chút kinh nghiệm vào đoàn đi diễn. Mỗi người vừa diễn vừa học nâng cao chuyên môn ngay tại đoàn, người nọ truyền lại người kia qua thực tiễn trưởng thành lên. Bằng thực tiễn nghề nghiệp, kinh nghiệm chiến trường, các diễn viên cải lương giải phóng ca diễn chân thật, không khoa trương hình thức, ca theo nội dung tình cảm nhân vật, không khoe giọng ca, trưng mốt thời trang... Diễn viên cải lương giải phóng thành công các vai diễn đề tài cuộc sống con người mới, nhiều diễn viên được bộ đội giải phóng mến mộ. Một số diễn viên trở thành “hạng sao” của bộ đội trước đêm xuất kích, hành quân đi chiến đấu... được mời đến ca diễn động viên bộ đội giải phóng. Các diễn viên như Sáu Quả, Sáu Nở, Hồng Thắm, Năm Trinh,... (đoàn ánh Hồng Trà Vinh) Hồ Châu, Tư Đại, Tám Tám, Cẩm Linh, Hai Bông, Ba Lan, Mười Hạnh, Thu Hà, Tám Thạnh... (Kiên Giang), Thu Hồng, Lệ Hoa, Thanh Đời, Minh Tuấn, Ba Thu, Bẩy Đả, Việt Hải, Hữu Nghĩa, Cô Hoa, Chín Thuỷ (Đoàn Sông Hậu 1969), Thu Ba, Ba Bé, Hoàng Linh, Thanh Tiến, Mai Danh... Đoàn Cải lương An Giang... diễn vở Tô thuốc độc, Người con gái đất đỏ... bằng nghệ thuật diễn chân thực nhiệt tình. Nhiều vở diễn còn in đậm trong lòng nhân dân, bộ đội giải phóng như vở: Em bé Tân Thanh (Minh Thuỳ 1962), Trang lên khỏi núi – Phan Thế (1963), Ông Năm Hạng (Đoàn Tứ 1965), Năm quân lương (Trần Ngọc 1973), Sóng cuốn đô thành (Huy Lam 1965), Lòng dân (Hoàng Nghệ 1965)...



Diễn những vở cải lương cổ, các diễn viên ca diễn bài bản gần với tuồng cổ, có cách điệu nhẹ hơn. Diễn những nhân vật cải lương cổ có tích bài bản nâng cao hiện đại, diễn những nhân vật con người cuộc sống mới gần với ngôn ngữ kịch nói. Mỗi vở diễn đạt mục đích đem đến người chiến sĩ tinh thần mới, động viên ý chí chiến đấu, là mục đích nghệ thuật cải lương văn công giải phóng.



Âm nhạc mỹ thuật.

Âm nhạc.



Âm nhạc sân khấu các vở mới thường có hai hình thức sử dụng âm nhạc, một là chép lại những bản nhạc của đoàn trước để dựng về tập lại. Hai với những vở mới, lấy bài bản hoà tấu nhạc nền, chỉ một số đoàn lớn có điều kiện viết nhạc cho vở diễn mới.



Tuy âm nhạc chưa thực sự được đầu tư sáng tác nhưng các đoàn coi trọng bằng cách hoà tấu nhạc nền, chú ý tập ghép nhạc với ca diễn, có những thời gian dàn dựng tiết mục, họ luyện tập khá thuần thục ca nhạc, mục đích lấy âm nhạc tạo không khí, nâng cao vở diễn. Nghệ thuật kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc không nâng cao, phần lớn mang tính thực hành biểu diễn, hoà tấu bài bản cổ là chính, tập những lớp khí nhạc mới rất ít. Do hoàn cảnh chiến trường, thiếu nhạc sĩ viết nhạc... khí nhạc dàn nhạc cải lương không phát triển, nhiều đoàn chỉ có hai ba nhạc cụ như ghi ta lõm, đàn kìm, nhị, hoặc thập lục, đàn bầu... Dàn nhạc không đồng bộ, thiếu nhiều nhạc khí mới, có đoàn còn sử dụng nhạc cụ phương tây đệm cho cải lương vì nằm trong đoàn văn công tổng hợp. Nhiều lần biểu diễn tổng hợp ca múa nhạc, kịch, cải lương, phần dàn nhạc có vẻ chính quy. Khi ca cải lương có dàn nhạc cổ đệm bài bản, phần tính kịch, chuyển cảnh... có dàn tân nhạc hoà tấu nghe xúc động hiện đại, nhưng không nhiều chưa phải hướng chính của cải lương giải phóng.



Ca nhạc cải lương giải phóng có sao hoà tấu như thế, ca nhạc tạo không khí vở diễn, người ca, ca chân thực ngọt mùi truyền cảm những tình cảm, tinh thần mới đến nhân dân và người chiến sĩ. Ca nhạc cải lương không có điều kiện nâng cao kỹ thuật, cải cách làn điệu cải lương, dù có sáu tháng dựng tiết mục, có đôi cuộc họp bàn tới chuyện cách tân ca nhạc bài bản nhưng thiếu thày ca kỹ thuật để đổi mới ca nhạc, nên ca nhạc cải lương giải phóng ít phát triển. Ca nhạc cải lương giải phóng đem đến người chiến sĩ bằng sự hồn nhiên, xúc cảm chân thực từ cuộc sống chiến đấu truyền cảm xúc ca diễn của diễn viên cải lương đến anh bộ đội giải phóng.



Mỹ thuật, phục trang.



Mỹ thuật, phục trang cải lương giải phóng nhiều hình thức trang trí sân khấu từ thực tiễn sân khấu, thực tiễn cuộc sống và thực tiễn vốn có của mỗi đoàn. Đoàn có điều kiện cảnh trí khá đầy đủ, một vở bảy cảnh, mỗi cảnh có đủ phông màn cảnh trí cho từng vở khá phong phú. Các đoàn cải lương giải phóng có hai hình thức biểu diễn, biểu diễn chính quy phục vụ một đại đội, một lữ đoàn, đêm diễn có đầy đủ dàn nhạc, phông màn, ánh sáng, cảnh trí như là đại diện lớn mạnh của sân khấu cách mạng. Tuy đồ sộ là thế nhưng còn cái gì đó chưa rực rỡ, lộng lẫy. Sân khấu còn mang tính dã chiến, sân khấu chiến tranh. Biểu diễn xung kích trang trí đơn giản, lấy nghệ thuật diễn thay cho nội dung hình thức sân khấu.



Mỹ thuật cải lương giải phóng sân khấu tả thực, ước lệ. Tả thực cảnh trí vẽ khái quát mảng khối, không vẽ tả thực chi tiết, tả thực ước lệ cảnh trí. Có nhiều vở tả chân một số cảnh vẽ tả thực độ ba cảnh, quay đi, quay lại diễn hết vở... đồ vật khá giản đơn, trên sân khấu đôi khi ước lệ là hoàng cung, chiến trường... Những đêm diễn xung kích một số vở trang trí cây thật, kết hợp với cảnh trí để diễn tả không gian sân khấu... Những hình thức trang trí không mới, không đẹp, sân khấu cải lương giải phóng cốt tạo ra một khoảng không gian vở diễn để phân biệt với cái không gian tự nhiên. Sân khấu tạo ra không gian nghệ thuật để diễn, qua đó giới hạn sân khấu diễn viên diễn chân thành, xúc cảm. Đó là sự diễn tả sâu sắc của sân khấu cải lương giải phóng. Phục trang những vở cổ là những mẫu quần áo các nhân vật hoàng tử, công chúa, vua, quan... cứ như thế vở nào mặc đều được. Vào thời gian tập huấn, các đoàn mang trang phục vở diễn mới đôi khi một hai, ba năm mới có một lần may trang phục, không có điều kiện dựng vở, lại may trang phục mới. Những vở cải lương đương đại còn đơn giản hơn, có vở may trang phục, nhiều vở diễn viên có sao mặc thế. Những vở nói về thanh niên xung phong, anh bộ đội giải phóng, diễn viên mặc luôn bộ quân phục mới nhất của mình lên sân khấu, coi đó là trang phục vở diễn... Mỹ thuật phục trang sân khấu cải lương giải phóng, trang trí vở diễn trên tinh thần tả thực như hiện có trong cuộc sống chiến đấu, ít có điều kiện mỹ lệ hoá sân khấu. Đôi khi ở chiến trường trang trí như thế lại không phù hợp, tất cả vì một sự chân thành như cuộc sống vốn có.



Mỹ thuật sân khấu cải lương giải phóng, tạo không gian sân khấu, tạo khoảng cách nghệ thuật với không gian tự nhiên để diễn, đây như một hình thức mỹ thuật mới của sân khấu chiến tranh. Mỹ thuật phục trang vở diễn hiện thực, tự nhiên, bình dị, tạo không gian nghệ thuật ca diễn cải lương.



Sân khấu cải lương vùng tạm chiếm Nam Bộ.

2.1. Bối cảnh văn hoá xã hội Miền Nam



Năm 1965, nửa triệu quân Mỹ đổ vào Miền Nam, đường phố Sài Gòn, các đô thị Trung - Nam tràn ngập người Mỹ, văn hoá Mỹ thâm nhập vào đời sống nhân dân các đô thị, tầng lớp thanh niên chạy theo lối sống Mỹ khá nhanh nhạy. Lòng người ly tán, sự lãnh đạo của Mặt trận chưa kiểm soát nổi vùng đô thị, mỗi người hành động theo chí hướng riêng. Người làm thuê trong các quán Bar, nhà hàng khách sạn đầy ắp gái bao và bệnh hoạn (2). Nhật ký một số người Mỹ ghi lại: cứ ba cô bán hoa thì hai cô bị bệnh xã hội... Chính quyền Sài Gòn thay đổi liên tục, chính trị bất ổn, đới sống xã hội chao đảo, mọi người hưởng lạc, sống gấp.



Trong hoàn cảnh ấy, văn hoá nghệ thuật phát triển xô bồ, nghệ thuật Mỹ, ca nhạc Mỹ, phim trưởng Hồng Kông... tràn ngập các sân bãi. Phong trào cách mạng ở các đô thị chưa mạnh, số đông mất phương hướng chạy theo lối sống văn hoá bại phong, nghệ thuật phản văn hoá, nhạc vàng, phim con heo, nhạc sex... thưởng ngoạn trong nhà riêng, ngoài quán Bar. Lối sống tha hoá được đáp ứng công khai, trước tình hình rối ren, mất phương hướng của số đông những người sống gấp, một số tổ chức xã hội đứng lên tuyên truyền lối sống mới bảo vệ văn hoá dân tộc, liền bị truy xét, trong đó các đoàn cải lương mặc sức diễn các loại vô bổ. Những người yếu bóng vía đành phải chuyển sang kinh doanh văn hoá nghệ thuật, buôn bán văn hoá phẩm chiếu phim... những ban hát nhỏ tan rã, tuy vậy, từ năm 1965 đến 1975 tại Sài Gòn còn nhiều ban hát lớn, nhỏ. Những đoàn lớn như Dạ lý hương, Kim Chung, Thái Dương, Kim Chưởng, Hương mùa thu, Thanh Minh – Thanh Nga... theo một số nhà nghiên cứu cải lương cho rằng trong bối cảnh xã hội hỗn loạn, sân khấu cải lương càng hỗn loạn, số vở diễn có tới 400 – 500 vở, con số này quả không nhỏ, nhưng số người

........................................................................................................

2) Theo báo An ninh thế giới - 2007

lưu giữ chỉ có vài chục vở. Sau ngày giải phóng, cứ là sản phẩm văn hoá chế độ cũ bị đốt, phá sạch, ai lưu giữ là vi phạm nên tư liệu còn rất ít. Sân khấu cải lương có các khuynh hướng quen thuộc:



Cải lương kiếm hiệp - hương sa, sexy

Hai hình thức diễn cải lương thịnh hành nhất Sài Gòn, đến năm 1968, phong trào diễn cải lương giảm sút. Năm 1970, chính quyền Sài Gòn tổ chức lên dây cót văn nghệ sĩ, trao giải cho các vở: Thảm kịch tuổi xanh của Hoàng Khâm... theo Minh Văn, đây là loại cải lương loã thể. Ông còn dẫn năm 1972, “Hội nghệ sĩ ái hữu hội tụ 5.000 hội viên của 53 đoàn ca tại Sài Gòn, cho thấy xã hội các đo thị Miền Nam những năm chiến tranh ác liệt, hoạt động văn hoá nghệ thuật còn mạnh.



2.2. Mấy nét về cải lương thành phố.



Giai đoạn 1965 – 1970, là giai đoạn hưng thịnh phát triển đỉnh cao của cải lương Sài Gòn, sau đó chiến sự ác liệt lan tới các thành phố Miền Nam, sân khấu vùng tạm chiếm thoái trào, nhiều đoàn tan rã. Giai đoạn cao trào cải lương xuất hiện nhiều ban hát nổi tiếng, nhiều diễn viên ngôi sao, diễn các loại cải lương sân khấu rực rỡ. Nhiều nghệ sĩ ca diễn có phong cách riêng như út Trà Ôn, Kim Chưởng, Hoàng Giang, Thành Được, Phượng Liên, Hùng Minh, Hữu Phước, Diệp Lang, Bạch Tuyết, Lệ Thuỷ, Mỹ Châu, Thanh Nga, Thanh Kim Huệ, Thanh Tòng, Minh Cảnh, Minh Phụng, út Bạch Lan, Thanh Sang... chỉ tính các diễn viên nổi tiếng công chúng hâm mộ ở 53 ban hát, có 82 hạng sao. Bằng ấy ban hát và các diễn viên nổi tiếng, là sự hùng mạnh của cải lương Sài Gòn.



Sân khấu cải lương Sài Gòn mạnh về đội ngũ diễn viên, tác giả, nhiều về số lượng vở diễn, giàu có về trang thiết bị kỹ thuật sân khấu, nghệ thuật ca diễn có tiến bộ xa những giai đoạn trước. Các đoàn cải lương Sài Gòn tồn tại những ban hát nổi tiếng ở giai đoạn trước đến năm 70, tiếp tục tồn tại như Việt kịch Năm Châu, Công ty Cải lương Kim Chung, Minh Cảnh, Tấn Tài I, Tấn Tài II, Đoàn Cải lương tuồng cổ Minh Tơ, Đoàn Tinh hoa, Hương mùa thu, Khánh Hồng, Việt Tân, Thuý Nga, Tấn Thành, Kim Hoàng, Song Kiều, Thủ đô, Mai Hoa, Kim Thanh, Thống nhất, Trâm vàng, Thanh Minh – Thanh Nga, Kim Chưởng, Dạ lý hương... Sân khấu cải lương Sài Gòn mạnh về số lượng, hình thức, nhưng nội dung còn nhiều hạn chế. Những vở diễn yêu nước, tiến bộ giai đoạn 65 – 75, ít xuất hiện, phần lớn là những vở võ hiệp, cải lương sexy, tình dục. Bên cạnh những lệch lạc biểu hiện qua nhiều vở diễn nổi bật, có một số vở tố cáo lối sống sa đoạ của xã hội Mỹ hoá, tình trạng loạn luân, tình dục tràn lan, kêu gọi mọi người hướng về đạo đức hiếu nghĩa thuỷ chung.

Đặc điểm nổi bật của các ban hát cải lương thành phố diễn nhiều tích loại tuồng khó xác định, nên tạm chia thành hai loại:

Cải lương võ hiệp
Cải lương hương sa sexy

Cải lương võ hiệp, còn gọi cải lương đánh trưởng Hồng Kông, đây là sự khác biệt với cải lương võ hiệp giai đoạn trước nghiêng về La Mã, ả Rập, phương Tây. Giai đoạn này nổi bật là cải lương trưởng Hồng Kông, dù là võ hiệp thì những câu chuyện tình vẫn khá nổi, nhưng những pha đánh võ giật gân làm nó lấn át các cuộc làm tình. Nên cải lương võ hiệp dù là những câu chuyện tình thì những cuộc thí võ nổi hơn, nhưng những đoạn tình cảm tâm lý không thiếu. Loại vở diễn cải lương võ hiệp là những chuyện trưởng, phim trưởng Hồng Kông, Đài Loan, Trung Hoa và một số tiểu thuyết phương Tây chuyển dịch sang cải lương. Những ban hát diễn cải lương võ hiệp có hai loại, loại đề tài cổ: dã sử, lịch sử, huyền thoại, cổ tích, dân gian, tuồng Việt, tường Tầu, tuồng Tây. Loại đề tài đương đại, những vở diễn đấu súng, dao găm, cung tên... ly kỳ giật gân khá hấp dẫn.



Nhiều ban hát diễn cải lương sexy, hương sa, nội dung là những câu chuyện tình tay ba, tay tư, éo le trắc trở, ngang trái lâm ly. Những vở diễn này gợi tình, tạo khoái cảm tò mò cho công chúng như các vở: Hoa rụng giữa cuồng phong, Người phản bội, Chuyện chúng mình, Chuyện tình tiền... có một chút tiến bộ nhưng những cảnh làm tình quá lộ liễu trên sân khấu, còn nhiều vở khác mạnh mẽ hơn như: Cho trọn cuộc tình, Bí mật của nàng, Bí mật của chàng, Vợ tôi là gái bán hoa, Gái điếm vợ hiền, Lấy chồng xứ lạ, Gái tắm hơi, Nữ hoàng về đêm, Tuyệt tình ca, Nỗi buồn người con gái... của nhiều tác giả ăn khách thời ấy: Điêu Huyền, Hà Triều, Hoa Phượng, Yên Ba, Hoàng Khâm, Ngọc Điệp... khá nổi tiếng.



Hoạt động các đoàn cải lương Sài Gòn nổi bật, hỗn loạn diễn nhiều vở cải lương dung tục, chạy theo thị hiếu công chúng làm mất thẩm mỹ văn hoá nghệ thuật cải lương. Bên cạnh đó còn những ban hát, nghệ sĩ tiến bộ diễn những vở tố cáo xã hội Mỹ hoá, bảo vệ văn hoá dân tộc, hướng tới tình cảm quê hương đất nước. Từ những hướng cải lương xô bồ, nghệ thuật diễn có phần tiến bộ, cả những điều không chấp nhận được của cải lương vùng tạm chiếm.



2.3. Nghệ thuật biểu diễn.



Nghệ thuật diễn cải lương nội đô, các ban hát giai đoạn này không chú ý tuyên ngôn, khuynh hướng, phong cách riêng, các ban như hoà chung một chí hướng. Nhìn lại tiến trình diễn cải lương từng ban hát lúc mới ra đời ở những giai đoạn trước, các ban chú ý nuôi dưỡng tác giả, tạo dựng khuynh hướng, phong cách riêng như nhiều ban xưa từng tuyên ngôn: cải lương tuồng Tầu, tuồng Tây, tuồng xã hội, trinh thám, kiếm hiệp kỳ tình. Nhưng những ban hát giai đoạn này không cần tuyên ngôn, người ta làm gì mình làm theo thế, nếu không có khách chuyển hướng ngay. Các ban diễn doanh thu phản ứng linh hoạt, kịp thời chạy theo thị hiếu công chúng, diễn cải lương các loại vì khán giả, vì doanh thu.



Những nghệ sĩ diễn viên chạy theo thị hiếu khán giả, có khán giả thì catse cao, nhiều nghệ sĩ cải lương sống đế vương, nhà cửa sang trọng, tiền sài như nước, ô tô thay như người đi chợ, chuyện cuộc sống không phải nghĩ. Đây là một động cơ làm cho lớp nghệ sĩ cải lương trẻ thời ấy chạy theo thị hiếu diễn cải lương sex gợi tình... Còn những ban hát dung túng diễn những vở cải lương dung tục vì doanh thu, tiền tài và lối sống gấp đã bỏ quên văn hoá sân khấu dân tộc, số ban hát nghệ sĩ vì nghệ thuật chỉ là số ít. Trong vô vàn sự lộn xộn, dung tục của cải lương hương sa, nhiều diễn viên đắm chìm vào lối diễn thô thiển, thì những diễn viên gạo cội như Năm Châu, Phùng Há, Kim Cúc, Ngọc Dầu, Thanh Nga, út Trà Ôn, Diệp Lang, Mộng Vân, Thanh Kim Huệ, Thanh Dung, Thanh Sang, Phương Quang... lại diễn kín đáo hơn. Nhiều người đi sâu ca diễn nổi tiếng bằng tên gọi đi liền với bài Vọng cổ. Nghệ thuật diễn thời ấy, trong mỗi diễn viên thường có hai loại ngôn ngữ biểu diễn. Một loại diễn dân tộc, ca và bộ ca hay, ngọt ngào và hành động diễn đúng mức, loại hai diễn dung tục gợi tình, vì đó là xu thế thời thượng, không diễn như thế ít được đồng tình. Dù rằng những hình thức diễn sex bị dư luận lên tiếng, công chúng phê phán, nhưng nếu là số đông chắc không thể hưng thịnh lối diễn cải lương hương sa. Nhìn lại nghệ thuật diễn cải lương giai đoạn trước, ngôn ngữ hành động diễn đâu đến nỗi dung tục quá mức. Nhưng phải nói ngay nhiều diễn viên trẻ diễn gợi tình, trong họ vẫn có một hình thức diễn thứ hai là ca diễn dân tộc. Vì những nhân tố tiến bộ ấy trong mỗi con người diễn viên, nên đặc điểm nổi bật nghệ thuật diễn của diễn viên là:

Diên ngoại hình có kỹ xảo, một phần nội tâm
Diễn xúc cảm, ca hay ngọt mùi.

Ca ngọt mùi là đặc điểm hàng đầu các diễn viên cải lương ngày ấy, nghệ sĩ diễn viên hầu hết luyện giọng ca ngọt mùi, phục trang lộng lẫy, tạo dáng đẹp, đó là sự chinh phục công chúng của các hạng sao cải lương. Ngôn ngữ hành động diễn khoa trương, ngoại hình, hình thức nhiều, nhưng những hình thức diễn tả tình cảm chân thật, ca ngọt mùi đã được các diễn viên khai thác thành thế mạnh ngôn ngữ hành động diễn. Dù bệnh hình thức, khoe dáng đẹp, phục trang mốt thời thượng là phổ biến, thì đôi chỗ diễn chân thực là điểm nhấn thành công của các diễn viên. Diễn giỏi ca hay, hình thức đẹp là thế mạnh của các diễn viên ngày ấy, kéo dài đến ngày thống nhất đất nước, họ làm dân Bắc Kỳ mê hồn về ca diễn. Dù tiếp quản thành phố, bị cấm nghe nhạc vàng, cải lương chế độ cũ bị tống vào một rọ là văn hoá đồi truỵ thì nhiều gia đình xứ Bắc, dân chợ búa, lao động thủ công, công nhân công nghiệp nhẹ, thợ thuyền, nông dân cứ sài món hàng văn hoá bị cấm. Những bản nhạc Trịnh quy là nhạc vàng, cải lương Sài Gòn cứ gặm nhấm trong các gia đình, cấm không nổi. Liệu có phải một nét thành công của nghệ thuật ca diễn mà các diễn viên đã khổ luyện để hấp dẫn công chúng?



Nghệ thuật diễn cải lương tạm chiếm có những được mất, trong hoàn cảnh khó nói về cuộc sống, các nghệ sĩ đã có những cống hiễn nhất định cho sân khấu cải lương để sau này chuyển hướng thành nền sân khấu cải lương hiện thực xã hội, dân tộc và thời đại. Những thành công, những đổ vỡ để hôm nay và mai sau tiếp bước nghệ thuật biểu diễn sân khấu cải lương hiện thực đổi mới.



2.4. Âm nhạc, mỹ thuật

a. Âm nhạc.



Dù là văn hoá <<Từ này không được phép>>, đồi truỵ nhưng còn đó một sản phẩm tinh thần nhân dân sáng tạo một thời của các văn nghệ sĩ, chỉ tiếc đến nay các Viện nghệ thuật không có nổi cuộn băng, một kịch bản về cái thời đã qua. Một số cá nhân lưu giữ đôi vở, chìm nổi đâu đó khó tìm được vật chứng đầy đủ như những gì đã nói ở trên. Tư liệu văn bản học thiếu, âm nhạc còn thiếu hơn, nhưng qua những tư liệu sống đã thấy sự đổi mới âm nhạc, một thế hệ nhạc công, nhạc sĩ mới làm đổi mới âm nhạc.



Những nhạc công, nhạc sĩ mới chưa đóng góp bằng tác phẩm khí nhac, ca khúc mới mang tính văn hoá, nhân văn, dân tộc, nhưng đổi mới không khí âm nhạc vở diễn. Dù đó là thứ âm nhạc ngoại lai nhưng làm hiện đại hoá ca nhạc cải lương, những vở diễn như Nữ hoàng về đêm, Gái bán bar... đưa nhạc tuýp, rock and roll... cùng những điệu nhảy rực rỡ sắc màu đầy gợi cảm, ca nhạc cải lương tiếp thu nhạc nhẹ Mỹ từ năm 65 các lọai: Sến, tuýp, rock and roll, pop, cha cha cha... là bước phát triển đổi mới ca nhạc cải lương tiếp cận nền nghệ thuật phương Tây hiện đại. Sự tiếp nhận nhạc nhẹ, những điệu nhảy Mỹ, lối sống Mỹ... vào cải lương tạo sân khấu mới, nâng cao các mặt trang trí, phục trang, kỹ thuật sân khấu... Nhưng sân khấu cải lương thành phố phát triển đa phong cách, diễn các hình thức cải lương:

Cải lương tuồng Việt
Cải lương tuồng Tầu
Cải lương ca nhạc nhẹ Mỹ

Mỗi hướng là một hình thức âm nhạc, cải lương tuồng Việt âm nhạc mầu vàng, nhạc buồn, nhạc sến thị dân ảm đạm, kéo theo suốt quá trình phát triển cải lương. Vào giai đoạn hưng thịnh cuối cùng nhạc buồn càng mạnh, bởi nó phù hợp với tâm trạng thất vọng chán trường của phần đông thanh niên thị dân mất phương hướng, suốt ngày nhâm nhi ở các quán bar, nhà hàng lấy rượu làm vui. Có những giai đoạn nổi lên ca nhạc Triều Quảng, nhạc Mỹ, dù có xuất hiện hai hướng ca nhạc mới thì nhạc buồn luôn có mặt trong tất cả các vở cải lương than thân trách phận cho những mối tình tay ba, tay tư buồn đau. Ca nhạc cải lương đổi mới nhịp điệu, tiết tấu, âm điệu, một bước cách tân hiện đại. Dù những hình thức ca còn lai căng bê nguyên xi những bản nhạc Hồng Kông, Âu Mỹ vào ca nhạc cải lương, nhưng đã làm cho vốn bài bản làn điệu trình diễn trên sân khấu hiện đại hoá.



Nghệ thuật ca, phát triển hình thức ca tân nhạc, ca nhạc nhẹ với các bài bản cải lương theo nhịp điệu nhạc nhẹ, nhạc nhẹ hoá ca nhạc cải lương, cải lương hoá nhạc nhẹ. Mỗi ban hát, mỗi dàn nhạc có phương thức hoà tấu khác nhau, nhưng ca nhạc nhẹ hoá cải lương là hình thức cách tân xưa nay chưa có, chỉ có giai đoạn Mỹ hoá Miền Nam mới xuất hiện hình thức này. Bên cạnh những hướng cách chưa phù hợp với bản chất ca nhạc nghệ thuật cải lương, số dông lớp nghệ sĩ luôn giữ cho ca nhạc cải lương cải cách dân tộc hiện đại. Năm 1965, phát triển kỹ thuật ca cải lương nối bài Vọng cổ nhịp 32 với ca khúc mới, đặc biệt phát triển bản Vọng cổ nhịp 32, đây là sự phát triển cao kỹ thuật ca. Ca nhạc cải lương khá hoàn chỉnh kỹ thuật ca, ngâm, hò và các làn điệu, bài bản.



Ca nhạc cải lương chinh phục công chúng bằng kỹ thuật ca, giọng ca truyền cảm, ngọt mùi. Tuy nhiên từ những thành công kỹ thuật, nhiều ca sĩ chạy theo lối ca hình thức. Nhiều khi nói lối cương trò ra ngoài vở diễn, tự đứng ra so lo bài Vọng cổ với những bộ cánh tân thời rực rỡ gợi tình... Dù có những sa đà, quá khích trong ca diễn cải lương, nhưng ca nhạc cải lương đã đổi mới theo nhịp sống hiện đại.



b. Mỹ thuật, phục trang.



Mỹ thuật phục trang đồng hành cùng vở diễn, các ban hát đổi mới sân khấu, trang trí mỹ thuật tả thực đến mỹ lệ hoá sân khấu cải lương. Vở diễn kỹ thuật ca, cấu trúc mỹ thuật sân khấu tạo thành sắc màu với ánh sáng màu nhấp nháy lung linh đã hấp dẫn công chúng. Sân khấu hình thức, kỹ thuật chinh phục bằng hình thức và nội dung trước công chúng, một bước hiện đại hoá sân khấu cải lương.

Tại Sài Gòn - Chợ Lớn, có hàng chục rạp hát diễn các vở cải lương Việt: Khối tình Trương Chi, Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tống Trân Cúc Hoa... trang trí lộng lẫy những cảnh tiên sa non bồng thuỷ mặc, huyền ảo xem đến mê hồn, ấn tượng xúc cảm. Có thể coi đó là trang trí hình thức, nhưng đặt đúng chỗ khá thành công cùng với ánh sáng đèn màu tô đậm màu sắc sân khấu cải lương tình cảm. Còn những vở cải lương hương sa mỹ thuật sắc màu lung linh, loè loẹt, nhưng đầy gợi cảm. Nhiều người lên án lối trang trí hình thức, kỹ xảo, nhưng công chúng đến xem đông chắc họ đã đồng tình với sự đổi mới mỹ thuật của các ban cải lương. Mỹ thuật sân khấu, không đơn giản là tả thực mà mỹ lệ hoá sân khấu những vở đời sống đương đại, mỹ thuật gợi cảm nhiều đoàn treo cả những bước tranh loã thể phóng to, những cuộc tình trong bóng tối nửa kín nửa hở... Mỹ thuật lộn xộn không theo tiêu chí nào, mục đích gợi tả hoặc cụ thể hoá... Bên cạnh cái dung tục thô thiển, có những vở diễn sạch sẽ dù không nhiều, nhưng mỹ thuật hướng tới sự hoàn mỹ. Mỹ thuật sân khấu cải lương phù hoạ cùng vở diễn, ánh sáng đèn mầu tạo một sân khấu hình thức biểu hiện cái văn hoá thị dân.



Phục trang cách tân đổi mới, ngay những vở cải lương cổ cách tân trang phục quấn áo công chúa, hoàng tử bó sát theo kiểu Tây âu hoặc Hồng Kông. Các nhân vật cải lương phục trang trung tính không rõ con người thời đại nào, người diễn viên lấy cái đẹp phô diễn, gợi tả làm phục trang nhân vật cải lương. Những vở đương đại xuất hiện kiểu tóc nam, nữ Hồng Kông, hoặc Âu Mỹ. Dù đó là nhân vật cải lương con người đương đại, nhưng trang phục là những mốt Hồng Kông, Âu Mỹ. Phục trang mỹ thuật sân khấu không nhằm chính hướng nội dung vở diễn mà lạm dụng mầu sắc, kỹ xảo, mốt thời trang biểu hiện thị hiếu tiêu dùng, quảng cáo cho lối sống Âu hoá.



Mỹ thuật phục trang cải lương có những bất ổn, hình thức, thiếu biểu cảm nội dung, nhưng ở một góc nhìn mới lại là sự đổi mới sân khấu cải lương, mỹ lệ hoá sàn diễn, nâng cao kỹ thuật sân khấu. Sân khấu cải lương kết hợp tổng thể ánh sáng, mỹ thuật, phục trang ca diễn, tạo thành sân khấu cải lương võ hiệp, diễm huyền hương sa. Đó là bước phát triển cải lương thành thị theo một loại sân khấu hình thức, chinh phục công chúng dưới mọi vẻ đẹp bên ngoài, có một phần nội dung bên trong theo hình thức của cải lương mỹ lệ. Sân khấu ấn tượng – hình thức.



II. Nghệ thuật cải lương Bắc

Giai đoạn 1965 – 1975



Miền Bắc hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất, xây dựng nền kinh tế cong nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng các đoàn nghệ thuật chính quy, hiện đại, chuẩn bị bước vào kế hoạch năm năm lần thứ hai thì cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt. Miền Bắc không có điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá, nhưng thực hiện chủ chương xây dựng các đoàn nghệ thuật theo hai hướng: biểu diễn chính quy, hiện đại, biểu diễn xung kích nhỏ lẻ, phục vụ chiến đấu. Năm 1966, mở đầu cuộc chiến tranh ác liệt, bộ máy tuyên truyền đưa ra khẩu hiệu “đạp lên đầu giặc ta đi”, “văn nghệ sĩ là chiến sĩ”, “tiếng hát át tiếng bom”. Cổ vũ hàng vạn thanh niên vào Nam chiến đấu ra tuyền Tuyến đánh giặc lập công. Nhiều đoàn thành niên xung kích, nhiều văn nghệ sĩ đi chiến đấu trên các chiến trường tuyến lửa khu IV, Trường Sơn vào các mặt trận Miền Trung và Nam Bộ. Từ năm 1966, nhiều đoàn cải lương, ca múa nhạc, dàn nhạc giao hưởng chia thành các đội xung kích, đi biểu diễn trên tuyến lửa, động viên bộ đội đồng bào địa phương, phục vụ sản xuất và chiến đấu.



Nhờ có nhiều năm xây dựng nghệ thuật trong hoà bình, sân khấu cải lương đổi mới phương thức phản ánh hiện thực, nghệ thuật biểu diễn thoát khỏi tình trạng nghiệp dư hoá các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp. Trước đây thực hiện văn nghệ đại chúng, các đoàn nghiệp dư thường diễn cùng những đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, nhưng sau năm năm xây dựng nghệ thuật khoảng cách đã khác biệt. Miền Bắc có 11 đoàn cải lương: Đoàn Cải lương Hải Phòng, Đoàn Cải lương Quảng Ninh, Đoàn Cải lương Hà Tây (Hoa Mai), Đoàn Cải lương Vĩnh Phúc, Đoàn Cải lương Nam Hà, Đoàn Cải lương Quyết Tiến, đổi tên thành đoàn Cải lương Bắc Thái, Đoàn Cải lương Kim Phụng, Đoàn Cải lương Tung Ương, đoàn Cải lương Nam Bộ, Đoàn Cải lương Chuông vàng. Mấy năm sau do yêu cầu phục vụ bộ máy chiến tranh mở rộng trên cả nước xuất hiện thêm: Đoàn cải lương Thanh Hoá. Đoàn cải lương Thanh Hoá thành lập 1 – 5 – 1968, tên gọi khi ra đời là đoàn Cải lương Thanh Bình, là đoàn cải lương tập thể, hoạt động tại thị xã Thanh Hoá năm 1957. Năm 1968, chuyển thành đoàn cải lương Nhà Nước, do Nhà nước quản lý, cán bộ diễn viên vào biên chế, hưởng lương công chức. Năm 1998, chuyển đoàn cải lương Thanh Hoá vào Nhà hát Ca múa nhạc kịch Thanh Hoá.



Đoàn Cải lương Thanh Hoá, có truyền thống cải lương khá lâu đời như Đoàn Chuông vàng, Kim Phụng thành lập từ các đoàn cải lương tư nhân, có lớp nghệ sĩ diễn viên xuất sắc. Lớp nghệ sĩ đầu tiên NSƯT: Ba Thiềng, Ngọc Long, Hải Yến, ánh Nguyệt, Cao Khang, Phi Long. Thế hệ thứ hai những nghệ sĩ xuất sắc: Nguyễn Thị Điệp, Thuý Mười, Hồng Ân, Kim Thoa, Tiến Vụ, Nguyễn Thị Yến... Đoàn có dàn kịch mục 60 vở diễn, hàng chục diễn viên khá, được công chúng yêu thích, nhiều vở đoạt huy chương vàng qua các hội diễn.



Đoàn cải lương Hà Nam Ninh tiền thân là gánh hát chèo của gia đình nghệ sĩ Nguyễn Văn Thành (tức trùm Thịnh) ra đời năm 1937,(4) khi Pháp chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ, gia đình chạy vào vùng rừng thông Thanh Hoá, gọi là đòan cải lương Thịnh Lạc. Những nghệ sĩ diễn viên trong đòan phần lớn là con cháu trong nhà như Minh Lý, Huỳnh Đắc, Nguyễn Đình Huy, Nguyễn Văn Thành, Bích Ngọc, Thuý Mùi, Mạnh Tưởng, Văn Phúc...



Từ năm 1947 đến năm 1954 diễn các vở: Trình đông trình tây, Phụng nghi đình, Quan công thuỷ chiến, Tôn ngộ không đánh Bạch cốt tinh... hầu hết là cải lương tuồng Tầu. Đễn năm 1958, diễn các vở cải lương tuồng Việt: Triệu Trinh Nương, Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Lam Sơn tụ nghĩa, Lạc lối trở về, Gia đình cách mạng, Chiếc khăn hồng... Từ năm 1965 đễn 1975, diễn các vở: Lưới biển, Nguyễn Văn Trỗi, Dấu chân người trước, Tiếng trống sang canh, Lửa phi trường, Cùng một cuộc đời, Ngày tàn bạo chúa... Chỉ tính từ năm 1947 đến 1957, đoàn đã dựng và diễn thành công 11 vở cải lương được công chúng yêu thích. Lớp diễn viên đầu tiên của đoàn là bậc ông bà các thế hệ diễn viên sau trong một gia đình nghệ thuật, năm 1957, vào biên chế Nhà nước, đoàn đổi tên thành Đoàn cải lương Bình Minh, Hà Nam Ninh, Nam Định... Từ khi vào đoàn Nhà nước, đoàn hoạt động theo phương thức mới, thế hệ diễn viên trẻ chia thành hai phần, phần con cháu nhà nòi, phần những người mới tuyển ở địa phương lên đào tạo. Đoàn có đội ngũ diễn viên xuất sắc: Ba Bái, Huy Soái, Trần Tính, Quang Trí, Phạm Mỹ Hạnh, Trần Phương Thanh, Thanh An, Chí Mai, Hồng Thái, Kim Thoa, Thu Thuỷ, Hải Yến, Đại Phong, Minh Hùng, Hồ Hải... Đoàn Cải lương Hà Nam Ninh như nhiều đoàn cải lương Bắc Thái, Thanh Hoá, Hoa Mai... Từ năm 1966, liên tục đi biểu diễn chiến trường B, nhiều đoàn văn công sang chiến trường C, K.



Đôi nét hoạt động đặc biệt của một hai đoàn cải lương Bắc cho thấy sự lớn

.............................................................................................

(4) Theo Huy Soái - Đặng Tính, Quang Trí lẽ ra đoàn Nam Định phải lấy năm 1937, nhưng tỉnh chỉ láy từ năm 1947 mạnh ở các đoàn cải lương, giai đoạn 1965 – 1975, các đoàn nhanh chóng trưởng thành lớn mạnh về nghệ thuật có bề dày hoạt động nghệ thuật. Những thành tích hoạt động chiến đấu, qua các hội diễn còn nổi bật hơn sự phát triển nghệ thuật của các đoàn cải lương Bắc. Cải lương Bắc chuyển hướng cải lương phản ánh hiện thực cuộc sống mới, thành công vững mạnh về nghệ thuật biểu diễn, đa phong cách, đề tài cuộc sống mới. Nhiều đoàn cải lương xưa quá quen thuộc với cải lương tuồng cổ trở thành truyền thống của đoàn như Chuông vàng, Nam Định, Vĩnh Phú, Thanh Hoá... Hầu hết các đoàn cải lương Bắc quen diễn đề tài lịch sử, sang giai đoạn chiến tranh các đoàn diễn cải lương hiện thực cuộc sống mới thành thế mạnh, đây là bước ngoặt lịch sử cải lương Bắc.



Hội diễn sân khấu Miền Bắc năm 1970, đoàn Cải lương Chuông vàng vở Lửa Diên hồng – Chi Lăng. Đoàn cải lương Bắc Thái vở Cánh chim rừng – Ngô Mạn, Đoàn Cải lương Hải Phòng vở Hòn Đất – Thanh Tuyền, Đoàn Cải lương Quảng Ninh vở Quê than rực lửa, Thanh Đạm, Tùng Huy, Đoàn Cải lương Bến Tre – Long Châu Sa (Vĩnh Phú) vở Mê Linh khởi nghĩa – Trí Vượng, Đoàn Cải lương Nam Hà vở Trần Bình Trọng – Hồng Vũ, Đoàn Cải lương Hà Tây (Hoa Mai) vở Dấu chân người trước – Thuỳ Linh, Thanh Tuyền, Đoàn cải lương Kim Phụng vở Trương Vương – Việt Dung, Nhà hát Cải lương Trung Ương vở Bên dòng Nhật Lệ – Kính Dân, Đoàn Cải lương Thái Bình vở Đường lên phía trước – Thanh Long. Hội diễn cải lương năm 1970, kết thúc giai đoạn sân khấu chiến tranh, cải lương Miền Bắc có một giai đoạn phát triển cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật phục vụ cụ thể các chủ trương đường lối, chính sách của Nhà nước. Các văn nghệ sĩ sống khổ cực ba cùng, đi lao động cải tạo, lấy lao động chân tay thủ công làm mục đích cải tạo con người thành tài năng và nhân cách. Suốt mâý thập kỷ, các tác phẩm nghệ thuật phản ánh nghệ thuật chung một khuynh hướng, một phong cách trong tình thế ấy đã xuất hiện những tác phẩm tuyên truyền giỏi như bài hát Đường cày đảm đang có lời ca: Nước đủ phân gio nhiều, bón chăm sớm chiều... đã trở thành giai điệu hay, nhiều người yêu thích. Qua hội diễn sân khấu cải lương năm 1970, có 10 đoàn tham diễn bốn vở đề tài lịch sử, sáu vở đề tài cuộc sống mới. Sáu vở đoạt huy chương vàng: Lửa Diên hồng, Cánh chim rừng, Hòn Đất, Quê than rực lửa, Trưng Vương, Bên dòng Nhật Lệ. Số vở đề tài cuộc sống mới đoạt giải vàng nhiều hơn, khẳng định bước tiến mới cải lương Bắc phản ánh nhạy bán kịp thời cuộc sống sản xuất, chiến đấu ở các địa phương. Những vở diễn cải lương Bắc góp phần động viên mọi người vượt qua gian khổ hy sinh, dành chiễn thắng.



Sân khấu cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm nội dung đề tài phản ánh hiện thực cuộc sống mới, dù là cải lương tuồng cổ viết về đề tài lịch sử, dân gian, huyền thoại... mang tính hiện thực đương đại. Tính hiện thực của loại kịch bản này thường có hai đặc điểm, đặc điểm hiện thực lịch sử dựa vào những sự kiện, những tư liệu lịch sử để sáng tác vở diễn. Bên cạnh những tư liệu, sự kiện lịch sử, tác giả còn khái quát nội dung từ thực tiễn lịch sử rút ra bài học kinh nghiệm cho công chúng liên hệ tới hiện tại. Những vở cải lương lịch sử thường lấy gương xưa để nói hôm nay, có những vở diễn đầy tính thời sự nóng hổi như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Toản, Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Quang Trung... Các tác giả đặt tác phẩm vào những giai đoạn lịch sử bản thân xã hội mới có những hiện tượng đáng ngại phải quan tâm như Giặc lăm le xâm chiếm ngoài biên ải, nội bộ lại có những bất đồng quan điểm, vở diễn lấy gương xưa nêu cao tinh thần đoàn kết, chống giặc là mục đích lớn, hoặc quá thân thiết đồng chí anh em, thì bài học chiếc nỏ thần cảnh tỉnh những cơn mơ... Sân khấu cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa đề cao tính hiện thực, phản ánh hiện thực, cấu trúc sự kiện, câu chuyện có thực qua tư liệu lịch sử, hoặc từ hiện thực cuộc sống. Những sáng tạo hư cấu xa rời hiện thực bị phê phán, thậm chí bị cấm công diễn, đó là phần hạn chế, nên không xuất hiện các trào lưu, trường phái nghệ thuật mới lạ. Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa coi trọng tính đại chúng, phục vụ kịp thời, đó là những năm Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nghệ thuật và sân khấu cải lương thường xuyên diễn không bán vé, từ năm 1965, các doàn chỉ diễn phục vụ không đủ đáp ứng nhu cầu văn hoá, nghệ thuật của nhân dân. Nhưng nền nghệ thuật ấy, có một thời là công cụ đắc lực đoàn kết toàn dân, hướng lòng người vào mục đích dân tộc cao cả: đoàn kết, chiến đấu, xâu dựng quê hương. Sân khấu cải lương đã hoàn thành sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật vì lợi ích xã hội, xây dựng cuộc sống xã hội chủ nghĩa.



1.2 Nghệ thuật diễn.



Sân khấu cải lương Bắc giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa, chống chiến tranh phá hoại đã có những thành công nâng cao nghệ thuật biểu diễn, đổi mới toàn diện thành nền sân khấu mới. Sân khấu cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa.



Sân khấu cải lương Miền Bắc trải qua giai đoạn cải lương kháng chiến bước đầu xây dựng nền nghệ thuật mới, sau chuyển sang giai đoạn hoà bình và quá trình cải tạo nghệ thuật. Nghệ thuật cải lương từ những hình thức trình diễn xưa cũ đã đổi mới thành nghệ thuật diễn hiện thực xã hội chủ nghĩa, diễn theo đạo diễn, thể hiện nội tâm tình cảm nhân vật. Vào năm 70, các đoàn tập huấn nghệ thuật diễn học tập nâng cao lần thứ hai theo hệ sân khấu xã hội chủ nghĩa do hai ông Đình: Đình Quang, Đình Nghi đưa về. Sân khấu cải lương một bước nâng cao nghệ thuật diễn, giai đoạn chống chiến tranh nghệ thuật diễn chưa định hướng rõ, thường diễn theo phương pháp hiện thực chung chung. Nhưng cải lương Bắc sau nhiều năm cải tạo đã chuyển hướng nghệ thuật diễn tiếp cận sân khấu kịch nói, từng bước kịch nói hoá sân khấu cải lương từ kịch bản đến nghệ thuật diễn, thậm chí cả âm nhạc, mỹ thuật sân khấu. Nghệ thuật diễn giai đoạn 1965 – 1975, các diễn viên diễn nội tâm đi sâu hành động nhân vật diễn xung đột hành động hình thể, nói đài từ gần ngôn ngữ kịch nói. Vì các diễn viên đào tạo tại chỗ còn có phần cải lương, những diễn viên được đào tạo tại trường học theo đài từ kịch nói. Tuy vậy, có nhiều vở diễn, vai diễn thành công bởi các diễn viên biết điều chỉnh giữa hành động hình thể với lối ca diễn tâm lý tạo ra nghệ thuật diễn biểu hiện nối tâm mạnh mẽ, sâu sắc. Điều ấy trở thành một khuynh hướng, xu thế diễn cải lương xung đột hành động mạnh. Công chúng xem nhiều thành thói quen, khi xem những vở cải lương ca diễn ngọt mùi thiếu xung đột hành động mạnh lại không hấp dẫn. Nhiều người còn cho những vở diễn như thế thiếu tính hiện đại, nghệ thuật diễn không cao... Chỉ khi giải phóng Miền Nam sự hoà nhập hai dòng cải lương người ta mới thấy cái sâu sắc của cải lương đi theo hướng nào? Sự sâu sắc của cải lương là xung đột bao biệt nội tâm, còn xung đột mạnh hành động ngôn ngữ ngoại hình là của kịch nói. Cải lương nói đài từ, ca diễn ngọt mùi, bằng không sẽ là kịch nói hoá cải lương. Cải lương Bắc đã có nghệ thuật diễn chân thực, nội tâm sâu sắc, đây là kết quả của giai đoạn sân khấu phục vụ sản xuất, chiến đấu từ cuộc sống của những người lao động trên các mặt trận sản xuất, chiến đấu. Dù nói đài từ, ca diễn chưa ngọt mùi, nhưng nghệ thuật diễn mạnh mẽ đem đến hệ thẩm mỹ mới cải lương anh hùng ca trữ tình. Nghệ thuật ca diễn nâng cao tính hiện thực tác phẩm, hiện thực cuộc sống, xây dựng ý chí, tình cảm, tâm hồn con người trong chiến tranh.

Cải lương Bắc ca diễn cứng rắn, mạnh mẽ không vàng vọt, uỷ mỵ, có phản ánh cái bi là bi tráng, bi hùng đầy chất anh hùng ca. Nghệ thuật diễn nội tâm, xung đột hành động mạnh mẽ không ẻo lả, đong đưa, ngoại hình của lối diễn cải lương xua cũ. Nghệ thuật diễn cải lương Bắc đã thành công một khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa của một thời đã qua.



Âm nhạc, mỹ thuật.

Âm nhạc cải lương.



Âm nhạc cải lương Bắc sau nhiều năm thử nghiệm các nhạc sĩ còn luẩn quẩn chưa có hướng ở mỗi tác giả, bước cải cách đầu tiên từ năm 1960, các đoàn phải sáng tác nhạc cho vở diễn mới. Các nhạc sĩ viết nhạc cho chèo, cải lương ứng dụng hình thức opera, operette vào cải lương đã bị sụp đổ. Bước tiếp theo viết theo hình thức chắp nối những mảng âm nhạc trong một vở bao gồm những đoạn nhạc: Nhạc mở màn, nhạc chuyển cảnh, nhạc cao trào, nhạc kết. Những hình thức vụn vặt, các đoạn không ăn nhập vào nhau, có tên gọi phổ biến là nhạc nền. Nếu sân khấu dân tộc chỉ có nhạc nền thì vai trò âm nhạc chưa có vị trí quan trọng trên sân khấu, vì nhạc nền chưa đủ diễn tả hết những đặc tính sân khấu kịch hát. Sau một thời gian thử nghiệm, các nhạc sĩ tìm hướng mới cho sân khấu cải lương dân tộc, nhằm nâng cao sức diễn tả âm nhạc.



Sau hàng chục năm thử nghiệm các hướng viết nhạc cho chèo, cải lương, có những nhạc sĩ chuyên như Vũ Ngọc Quang, Xuân Hỷ, Kim Sinh... nhạc cải lương, Văn Thịnh, Ngọc Chung, Bùi Đức Hạnh, Hạnh Nhân, Lê Toàn... nhạc chèo. Những tác giả chuyên sân khấu dân tộc xứ Bắc chưa có bút pháp viết nhạc cho thể loại kịch hát dân tộc. Thiếu sót này có lỗi của các nhà lý luận phê bình âm nhạc, vì phần lớn các bài viết nhận định âm nhạc về các tác giả thường có hai thái độ: khen nhiều, chê một tí, còn nhiều bài tâng bốc nhạc sĩ như thành công của một thiên tài âm nhạc, nhưng chính các nhạc sĩ xử lý âm nhạc qua mỗi vở diễn chẳng có gì sáng tạo chỉ là ngựa theo đường cũ. Nhiều vở viết giống nhau, chẳng nhạc sĩ nào có âm nhạc cho vở diễn một mảng hay thành tác phẩm khí nhạc để mọi người thưởng thức âm nhạc ra ngoài vở diễn. Các nhạc sĩ dù có trăn trở, đầu tư nhiều công sức cho vở diễn mới, nhưng thiếu phương pháp sáng tác khí nhạc cho sân khấu kịch hát. Thông thường các nhạc sĩ thường viết theo yêu cầu của đạo diễn chưa độc lập tư duy âm nhạc, hoặc đồng sáng tạo vở diễn để ra một tác phẩm khí nhạc cho vở diễn. Cảm thấy, nghĩ thấy đoạn này viết thế này, đoạn kia viết thế kia, chưa đồng nhất bút pháp sáng tác âm nhạc chung cho tổng thể vở diễn. Hình thức sáng tác này chỉ mang lại yêu cầu có nhạc cho vở diễn, đúng kế hoạch, đạt hiệu quả có bài hát hay, có đoạn nhạc hấp dẫn, “hay lắm” thế là gật gù thoả mãn, người nhạc sĩ vẫn đứng bên lề vở diễn. Âm nhạc sân khấu cải lương còn quá ít người chuyên viết nhạc cải lương, cuối cùng ai cũng là nhạc sĩ của chèo, cải lương. Vì lối viết nhạc nền, gặp sao viết thế chạy theo vở diễn ai viết cũng được. Âm nhạc sân khấu kịch hát thường có hai hình thức viết nhạc phổ biến, các nhạc sĩ có vốn bài bản, cải lương viết nhạc đầy chất âm giai cải lương, nhưng lại, thiếu sự diễn tả sâu sắc các nhạc khí mảng khí nhạc cho vở diễn. Bên chèo cũng tương tự, các nhạc sĩ chuyên chèo sáng tác khí nhạc không cao, hoặc ít có cấu trúc giai điệu âm điệu mới, chất giai điệu nặng tính ca hát, chưa mang chất giai điệu khí nhạc, âm nhạc cổ. Những nhạc sĩ không có vốn ca nhạc cải lương, chèo viết những mảng khí nhạc có chất giai điệu khí nhạc nhưng nó tách rời với âm diệu âm nhạc chung toàn vở, thiếu tính thống nhất chất liệu âm nhạc. Tuy nhiên, nếu tạo được những mảng khí nhạc hiệu quả vẫn thành công, ca nhạc sân khấu cải lương luôn tồn tại hai hình thức sáng tác nhạc. Một hình thức sáng tác nghệ nhân, hoặc dựa theo âm điệu bài bản cải lương sáng tác ca khúc mới, khí nhạc mới tạo sự thống nhất giai điệu âm điệu âm nhạc toàn vở là một tác phẩm âm nhạc. Hai là các nhạc sĩ sáng tác chất khí nhạc mới, ca khúc mới vựơt khỏi âm điệu cải lương mang sức diễn tả, biểu cảm cao. Từ xưa dến nay, sân khấu cải kương đã tồn tại hình thức viết nhạc này, công chúng chấp nhận đồng tình, điều ấy không có gì xa lạ với ca nhạc cải lương. Nhưng sang những năm đầu thế kỷ mới, sự sáng tạo một tác phẩm sân khấu, không còn là những tác giả độc lập: tác giả kịch bản, hoạ sĩ, nhạc sĩ, đạo diễn, diễn viên hoà đồng là một tác giả. Mọi sự sáng tạo ngôn ngữ từng loại hình nghệ thuật của từng tác giả mang tính độc lập riêng biệt lại hoà một nhịp đập thống nhất biểu hiện vở diễn, nghệ thuật hậu hiện đại thống nhất hoà đồng tinh tế trong diễn tả, đặt tác phẩm trong môi trường xúc cảm đồng hiện.



Mấy nét khái quát về quá trình viết nhạc cho sân khấu truyền thống, cải lương là loại thể dễ hoà nhập nhất sau hàng mấy thập kỷ các nhạc sĩ cải lương chưa tìm ra bút pháp, phương thức viết nhạc cho cải lương.Nhiều bản nhạc của các nhạc sĩ đã từng viết cho 50 – 60, hàng trăm vở cải lương trở thành hàng chợ, kiếm tiền trong quên lãng, hay chỉ là những bản nhạc hoàn thành kế hoạch cho các đoàn. Mỗi nhạc sĩ hãy lựa chọn chắt lọc mỗi tác phẩm âm nhạc cho các vở cải lương thành những CD riêng, sau khi đoàn công diễn, sẽ phát hành CD âm nhạc của mình tách khỏi vở diễn, đó là mong muốn thành công của ca nhạc cải lương đương đại.

Âm nhạc cải lương giai đoạn chiến tranh đã viết nhiều vở diễn, thành công không cao, chỉ làm được vai trò nhạc nền cho vở diễn, âm mhạc những vở diễn kịp thời như Đâu có giặc ta cứ đi, ánh lửa, Đường phố Sài Gòn dậy lửa, Góp phần chiến thắng, Anh hùng, lửa phi trường, Thanh gươm cô đô đốc... âm nhạc Phó đức Phương, Đắc Nhẫn, Đức Minh, Vũ Ngọc Quang... ca nhạc gây không khí nhạc nền. Những vở hội diễn, âm nhạc nghiêm túc hơn, có nhạc cao trào, diễn tả, đặc tả, ca khúc tâm trạng, biểu hiện sâu sắc. Âm nhạc sân khấu cải lương thời chiến đáp ứng nhu cầu phục vụ, chưa có hướng riêng của mỗi tác giả, sau năm 1975, âm nhạc sân khấu cải lương có bước chuyển mới.



Mỹ thuật, phục trang.



Sân khấu cải lương những năm chiến tranh, mỹ thuật có hai hình thức trang trí phù hợp hoàn cảnh từng vở diễn. Những vở chính quy, mỹ thuật tả thực lộng lẫy, hoành tráng của lớp hoạ sĩ mới: Phùng Huy Bích, Huy Văn, Hà Quang Sơn, Doãn Châu, Bùi Huy Hiếu... cùng những hoạ sĩ cũ Mộng Goòng, Trọng Can, Nguyễn Hồng... Mỹ thuật cải lương đổi mới cách trang trí tả thực với ước lệ. Vẽ cảnh trang trí đẹp, hoà sắc cải lương tươi mát.



Những vở cải lương tham dự hội diễn sân khấu Miền Bắc như Cánh chim rừmg, Bên dòng Nhật Lệ, Quê than rực lửa, Hòn đất... Mỹ thuật đem đến không khí chân thực. Những mảng màu ước lệ, gợi tả quê than hừng hực khí thế thi đua lao động, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng trời, vùng than. Mỗi cảnh trí như một bức tranh sinh động minh hoạ vở diễn, đặc biệt sắc màu rực lửa chiến tranh, có thể hơi khô cứng có phần kịch nói hoá, nhưng là những vở trang trí thành công về đề tài chiến tranh. Bốn vở cải lương đề tài cuộc sống mới của các hoạ sĩ đoạt giải A tại hội diễn, là thành công mỹ thuật sân khấu đề tài cuộc sống mới. Những vở đề tài lịch sử mỹ thuật tôn trọng những chi tiết lịch sử, các hoạ sĩ thường tạo tông màu chung từ tổng thể sân khấu đến phục trang theo những mô tuýp gam màu, phản ánh hiện thực. Mỗi cảnh trí mang một chủ đề làm rõ ý tưởng vở diễn, hỗ trợ không gian sân khấu, giúp người xem cảm nhận không khí từng cảnh. Phục trang nói rõ con người nhân vật thời nào ra thời ấy, không chung tính thời nào cũng được. Đây là nét nổi bật mỹ thuật phục trang những năm 70, luôn trân trọng sự thật lịch sử mang tính thời đại.



Từ hội diễn năm 1970, mỹ thuật cải lương tả thực lộng lẫy, ước lệ cảnh trí mảng khối, bục bệ tạo không gian sân khấu. Những vở cải lương đương đại cảnh trí tượng trưng, ít thay đổi nhiều làm dán đoạn vở diễn. Những vở diễn xung kích trang trí ước lệ, mỗi vở chỉ có hai ba cảnh, vẽ trên vải thuận lợi chuyển cảnh và vận chuyển. Mỗi vở diễn xung kích cảnh trí mang tính gợi tả, phác hoạ một phần không thời gian cho người xem, trên nền không gian ấy, nghệ thuật ca diễn làm chủ sân khấu. Mỹ thuật sân khấu những năm chiến tranh có hai hình thức biểu hiện: trang trí chính quy hiện đại, nhỏ lẻ, hỗ trợ vở diễn. Mỹ thuật tả thực – ước lệ – coi trọng sự thật lịch sử, sự thật cuộc sống mang tính thời đại.



Lịch sử cải lương 9
Tuấn Giang

Sân khấu cải lương giai đoạn 1975 – 1985

Sự phát triển của cải lương Bắc.



Sân khấu cải lương sau giai đoạn 1975, là bước ngoặt lịch sử trước sự hoà nhập cải lương Nam - Bắc, mỗi bên bổ xung cho nhau những ưu điểm, những hạn chế dần khắc phục. Cải lương Bắc chuyển từ sân khấu thời chiến sang văn nghệ thời bình, hướng đề tài phản ánh cuộc sống đã thay đổi. Thay đổi nội dung, thay đổi nghệ thuật ca diễn, đáp ứng công chúng mới. Theo trào lưu văn học nghệ thuật cuộc sống con người hậu chiến, sân khấu đặt ra những nội dung hiện thực thời đại.



Sân khấu cải lương Nam chuyển đổi từ nghệ thuật thương mại sang phản ánh hiện thực cuộc sống mới, loại bỏ dần những lối diễn khoa trương, ca vàng vọt uỷ mỵ bi thương. Từng bước nâng cao nghệ thuật biểu diễn, nội tâm nhân vật, ca có nội dung ngọt mùi, từ bỏ cải lương quá khứ đổi mới sân khấu. Cải lương Nam – Bắc, từng bước hoà nhập vào dòng cải lương hiện thực xã hội, mỗi đoàn cải lương là một đơn vị văn hoá nghệ thuật vì lợi ích nghệ thuật dân tộc, xây dựng đời sống tinh thần cao đẹp cho công chúng. Qua các hội diễn không ngừng nâng cao nội dung vở diễn, trình độ nghệ thuật xây dựng sân khấu cải lương văn hoá, dân tộc lành mạnh. Mở đầu ngày đất nước thống nhất bằng các cuộc liên hoan nghệ thuật ca múa nhạc, xiếc, sân khấu, nhạc giao hưởng năm 1975 trên 200 diễn viên các đoàn nghệ thuật Miền Bắc vào Nam, các đoàn văn công giải phóng, coi đây là trận tiến công thứ hai bằng sức mạnh văn hoá nghệ thuật xã hội chủ nghĩa được nhân dân hưởng ứng. Cuộc biểu dương văn nghệ cách mạng, sau chiến thắng mùa xuân, sân khấu cải lương Bắc có điều kiện đem đến đồng bào Miền Nam những thành quả mới của sân khấu xã hội chủ nghĩa. Sau những ngày hội văn hoá nghệ thuật, sự gặp gỡ giao lưu sân khấu cải lương Nam Bắc mỗi đoàn không ngừng nâng cao nghệ thuật theo hướng mới. Cải lương Bắc quá trình phục vụ đã ra đời thêm các đoàn ở một số tỉnh thành, mỗi đoàn có truyền thống phục vụ, đạt được những thành quả nghệ thuật riêng trong hoạt động sân khấu.



Nhà hát cải lương TW là Nhà hát hàng đầu của cải lương Bắc, dù về chất lượng nghệ thuật có lúc lên lúc xuống, có vở khá vở trung bình, nhưng về quy mô tổ chức đội ngũ, thực chất nghệ thuật... Là Nhà hát lớn mạnh.



Nhà hát cải lương TW tiền thân là Liên đoàn Ca kịch kháng chiến Thanh Hoá, ra đời ngày 17 – 4 – 1951 tại Hậu Hiền, Hậu Lộc – Thanh Hoá. Liên đoàn gồm 12 ban hát: Bạch Tường, Kim Thanh, Việt Hùng, Như ý, An Lạc, Thanh Kỳ, .... Nam Hoa, Hồng Kỳ, Quốc Hoa, Kiến Thiết, Tâm Tâm, Phụng Cát, hoạt động biểu diễn phục vụ bộ đội, dân công, nhân dân vùng liên khu III. Nhà hát có đội ngũ diễn viên tay nghề cao, sau năm 1954, có bộ phận cải lương Nam Bộ trong Nhà hát, gọi là đoàn cải lương Nam Bộ trong Đoàn cải lương TW. Mỗi giai đoạn lịch sử Nhà hát có những vở diễn thành công như Du kích Thăng Long, Chiếc va ly, Tiếng gọi non sông, Quán Thăng Long, Mai nở hai lần... của tác giả: Vũ Đào, Lê Hậu, Nguyễn Phương, Lưu Quang Thuận. Gai đoạn 1960 đến 1980 có các vở: Mật đắng gươm thiêng, Bà mẹ phú yên, Đốm lửa núi Hồng, Chiếc nhẫn ngọc, Người công dân số một, Khuôn mặt đời trần... của các tác giả: Chi Lăng, Lưu Trọng Lư, Thế Kỷ, Tuấn Vinh, Hoài Anh, Trúc Đường... Giai đoạn 1980 – 2007, có các vở: Cô gái Phù tang, Hai dòng sữa mẹ, Nỗi đau tình mẹ, Điều không thể mất, ánh sao lặng lẽ, Thời con gái đã xa, Kẻ bạc tình, Cội xưa... của các tác giả: Văn Hà, Nguyễn Đỗ Lưu, Lưu Quang Vũ, Vũ Hải, Thu Phương, Hữu Lộc, Đức Hiền. Nhà hát đã dựng 142 vở cải lương từ năm 1951 đến năm 2007. Nhà hát có nhiều vở diễn nghệ thuật có tính học thuật, tính thẩm mỹ, phục vụ công chúng, mỗi giai đoạn có lớp nghệ sĩ tiêu biểu như: ái Liên, Sĩ Hùng, Vũ đào, Lê Thọ, Tiêu Lang... 4 nghệ sĩ nhân dân, 24 nghệ sĩ ưu tú. Nhiều nghệ sĩ tên tuổi, nghệ sĩ các thế hệ diễn giỏi hát hay, được công chúng hâm mộ. Nhà hát luôn có những vở diễn tìm hướng thể nghiệm mới đến với công chúng cải lương trên các hướng đề tài.



Nhà hát cải lương Việt Nam là Nhà hát có số lượng diễn viên mạnh, nhiều vở diễn cách tân sân khấu, nghệ thuật diễn phục vụ công chúng hiệu quả.



Đoàn cải lương Vĩnh Phú thành lập 20 – 4 – 1962, tên đoàn là Đoàn Cải lương Bến Tre (Vĩnh Phúc), trưởng đoàn là ông Hồ Phải người Miền Nam tập kết. Tháng 7 – 1968, hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc gọi tắt là tỉnh Vĩnh Phú, hai đoàn cải lương Bến Tre, Long Châu Sa (Phú Thọ) hợp lại đổi tên thành đoàn cải lương Vĩnh Phúc đến năm 2005 tan rã.



Đoàn có đội ngũ diễn viên tên tuổi được nhân dân địa phương quý trọng như: Thuý Lan, Trần Thị đào, Kim Oanh, Hồng Hà, Văn Kim... Lớp diễn viên thế hệ thứ hai: Ngọc Thắng, Đình Tiến, Huy Chúc, Duy Chung... Lớp thứ ba: Thu Bảy, Quỳnh Hoa, Bích Hồng, Văn Thường, Lệ Thuý, Mạnh Hùng, Đình Tiến...Đoàn đã dựng 38 vở cải lương phục vụ nhân dân từ ngày thành lập đoàn 2004. Đoàn tham dự các hội diễn sân khấu cải lương như Người con gái đất đỏ – Phạm Ngọc Truyền, Hai trẻ mồ côi – Trúc Đường, Mê Linh khởi nghĩa - Chí Vượng, Chuyện tình Âu lạc – Phùng Dũng... Từ ngày thành lập đến ngày nghỉ diễn đoàn đã phục vụ 5230 buổi ở trong tỉnh và các tỉnh bạn. Thành tích các hội diễn cao nhất là huy chương đồng vở Chuyện tình Âu Lạc, Vuông khăn xanh, ngoài ra còn được tặng bằng khen. Số diễn viên tham dự các hội diễn có 32 người đoạt 7 vàng, có hai nghệ sĩ được phong danh hiệu cao nhất của đoàn là danh hiệu: Nghệ sĩ Hùng Vương, Kim Oanh, Duy Chung năm 1983, năm 2000 Thu Bảy được tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú. Cuối năm 2005, đoàn nghỉ diễn.



Đoàn cải lương Vĩnh Phú là đoàn cải lương có truyền thống nghệ thuật, có nhiều diễn viên ca diễn được công chúng các tỉnh yêu thích, nhưng chưa được quan tâm đầy đủ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đoàn không tồn tại.



Nhà hát cải lương Hà Nội, thành lập tháng 10 năm 1964, không phải năm 1959 như cuốn toàn cảnh sân khấu Việt Nam xuất bản năm 2004 đã công bố. Bộ văn hoá quyết định thành lập Nhà hát cải lương gồm: Đoàn Ca kịch Chuông vàng, Đoàn Ca kịch Kim Phụng, Đoàn Ca kịch Thanh niên hợp thành Nhà hát cải lương Hà Nội. Nhà hát mới thành lập thì cuộc chiến tranh nổ ra, năm 1966, uỷ ban thành phố Hà Nội quyết định tách nhà hát cải lương Hà Nội ra thành hai đoàn cải lương: Chuông vàng và Kim Phụng.



Đoàn Cải lương Chuông vàng, có ba giai đoạn hoạt động độc lập, giai đoạn một từ năm 1954 đến 1961, đoàn quản lý tập thể, đổi tên là Đoàn Tiếng chuông vàng Thủ Đô. Năm 1957, đổi thành Đoàn Chuông vàng, đến tháng 10 – 1965, chuyển thành Đoàn cải lương Nhà nước.



Từ năm 1954 đến 1965, đoàn có lớp diễn viên lâu năm như Tuấn Sửu, Thuý Mai, Mộng Dần, Trần Vũ, Kim Xuân, Tiêu Lang, Sĩ Tiến... Đoàn có những vở cải cách nghệ thuật như: Đêm hoa đăng, Sang hương đồng nội, Cánh chim hải yến... Năm 1964, đoàn sát nhập với đoàn Kim Phụng thành Nhà hát cải lương Hà Nội, đoàn có những vở diễn mới như: Cô gái đang yêu của Phạm Hoàng, Bất tử của Đoàn Giỏi, Trong lửa đạn của Nguyễn Bắc... Đoàn có lớp diễn viên trẻ: Bích Hạnh, Như Quỳnh (điện ảnh), Trần Bích, Thanh Dậu, Mạnh Duy, Sĩ Cát... lớp diễn viên diễn giỏi, hát hay. Năm 1964, nhập vào Nhà hát cải lương Hà Nội, năm 1966 lại tách ra hoạt động độc lập. Đoàn Cải lương Chuông vàng tiếp tục đổi mới nghệ thuật những vở diễn mới: Lửa diên hồng của Chi Lăng, xa lạ, Hồng Thế, Viên Ngọc nước, Văn Biển, Chạy trốn tình yêu của Phùng Dũng, Trái tim trên lửa hung tàn, Tất Đạt, Niềm hạnh phúc không tên, Thanh Hương, Tiếng thét trong đêm đen, Vũ Hải, Mười tám mùa lá rụng... Đoàn có lớp diễn viên trẻ: Ngọc Dung, Phương Khanh, Minh Hải, Chí Hùng, Quỳnh Châu...



Đoàn Cải lương Chuông vàng là đoàn nổi tiếng ở Thủ Đô, từ sau hoà bình lập lại, đoàn có dàn diễn viên nhiều người thuộc hạng sao cải lương Bắc, có dàn kịch mục 53 vở, phần lớn là đề tài lịch sử. Diễn cải lương lịch sử là thế mạnh của Đoàn Cải lương Chuông vàng, liên tục từ năm 1970 đến 2005, trong kíp diễn viên Chuông vàng sau chuyển thành Nhà hát chuyên diễn cải lương đề tài cổ. Đoàn Cải lương Chuông vàng để lại ấn tượng sâu sắc mạnh mẽ nổi tiếng trong cải lương Bắc, có thương hiệu: Cải lương Chuông vàng.



Đoàn cải lương Kim Phụng, ra đời ngày 10 – 10 – 1954 tại Hà Nội, tiền thân là đoàn cải lương của ông Đoàn Bá Chính diễn ở rạp Quảng Lạc, phố Tạ Hiền. Ông Ngọc Dư được phân công phụ trách chuyên môn có 40 người, là một ban hát lớn. Sau mấy tháng tiếp quản Hà Nội, đoàn đã công diễn mấy vở mới: Sức mạnh công nhân, Nhạc mùa xuân, Người anh hùng xứ Phổ Lan, tác giả Đoàn Bá Chính, đạo diễn Ngọc Dư.



Vở cải lương Người anh hùng xứ Phổ Lan, dàn cảnh tả thực, những toà lâu đài sừng sững trên sân khấu, những khẩu pháo nhả đạn, từơng vỡ từng mảng, nhà đổ nhào. Những khẩu súng máy vãi đạn, người ngã như sung rụng, đó là một nét hấp dẫn tả thực của cải lương Hà Nội, còn sót lại sau ngày giải phóng. Chỉ riêng cách tả thực như thế, tổ chức đạo cụ khá cầu kỳ, chưa kể phục trang loè loẹt, đầy hấp dẫn. Sau khi học tập ba cải, đoàn cải lương đã đổi mới nghệ thuật sân khấu và ca diễn. Giai đoạn từ 1954 đến 1964, đoàn có nhiều vở cải lương về đề tài cuộc sống mới, đây là thế mạnh của cải lương Kim Phụng. Đoàn có bốn vở tồn tại lâu, công chúng hâm mộ như Bà mẹ sông Hồng, Người con gái đất đỏ, Hương sen Đồng Tháp, Nhịp cầu thống nhất, Từ tuyến đầu tổ quốc... Năm 1964, nhập vào Nhà hát cải lương Hà Nội, đoàn dựng vở Luỹ thép trên hải đảo... Do chiến tranh, biểu diễn xung kích đoàn lại tách ra thành đoàn Nhà nước, diễn viên vào biên chế. Đoàn cải lương Kim Phụng diễn các vở: Những người quyết tử, Chiếc đàn T.rưng, Ba lần dũng sĩ... của Ngọc Căn, Huy Thành, Chi Lăng. Giai đoạn từ 1964 đến 1975, đoàn dựng các vở: Bông hồng gai, Trần Phùng, Cơn lốc, Trần Quán Anh, Trận đánh phía sau, Nguyễn Đình Quý... Ngoài ra đoàn còn dựng một số vở cải lương lịch sử, nhưng hướng chính, thế mạnh của đoàn là những vở cải lương đề tài cuộc sống mới. Giai đoạn 1975 – 1985, đoàn dựng tiếp những vở cải lương đương đại: Dòng suối trắng, Y Ban nàng tiên, Đến với bình minh, Dạ khúc tình yêu, ánh sáng trái tim, Hai phương trời thương nhớ... của các tác giả: Trung Đông, Việt Dung, Hữu Song, Lưu Quang Vũ, Thanh Hương. Đoàn có các thế hệ diễn viên Tuấn Nghĩa, Lệ Thanh, Minh đức, Kiều Oanh, Tùng Ngọc, Anh Đệ, Phạm Ty... Thế hệ tiếp theo: Nhật Minh, Vũ Quân, Huyền Thanh, Thanh Hằng, Huy Hùng, ánh Tuyết, Hoàng Thạch, Minh Nghĩa, Lê Chiến... đoàn cải lương Kim phụng giai đoạn mạnh nhất có 80 người, số vở diễn 65 vở, nhiều diễn viên cải lương xứ Bắc, giai đoạn đầu ở đoàn.



Đoàn Cải lương Kim Phụng có truyền thống nghệ thuật , luôn cách tân nghệ thuật ca diễn và đổi mới sân khấu. Nghệ sĩ nhân dân Ngọc Dư là người chỉ đạo chuyên môn của đoàn suốt nửa thế kỷ tạo dựng phong cách cải lương có tính truyền thống và đương đại.



Đoàn Cải lương Hải Phòng, thành lập ngày 10 – 9 – 1959, tiền thân từ bốn đoàn cải lương hợp lại: Đoàn Cải lương Phượng Hoàng, rạp Mi Ma Đua đường Cát cụt, Đoàn Việt Hồng, phố Tám Gian, đường Đông Kinh, nay là đường Phan Bội Châu, Đoàn Kim Thành, rạp Peugola, đường Pazssel nay là phố Quang Trung. Khi hợp lại ngày 10 – 9 – 1959, thành Đoàn Cải lương Phương Đông, năm 1964, đổi thành Đoàn Cải lương Hải Phòng.



Đoàn Cải lương Hải Phòng có một nghệ sĩ nhân dân: Phi Nga, 7 nghệ sĩ ưu tú: Lê Hải, Kim Luyện, Thanh Tùng, Thanh Thuấn, Đăng Toàn, Thu Huyền, Tô Hoàn. Mỗi giai đoạn lịch sử đoàn có những vở diễn tiêu biểu: Tiền và Nghĩa - đào Mộng Long, Bông Mai – Học Phi, Trái tim đứng gác – Thuỳ Linh, Hội sóng Bạch Đằng – Sĩ Tiến, Hòn Đất - - Thanh Tuỳên... Giai đoạn từ 1975 – 1985, đoàn có các vở: Nổi gió - đào Hồng Cẩm, Điều không thể mất – Lưu Quang Vũ, Pơliêm – Lưu Quang Thuận, Quạ thần và pho tượng đá - Ngọc Dư chuyển thể, Vẫn chưa muộn – Sĩ Hanh, Cô gái và chàng hoạ sĩ – Ngọc Linh... Đoàn có dàn kịch mục từ 1959 – 1985 là 50 vở, nhiều diễn viên đoạt huy chương vàng các hội diễn, tính đễn năm 2000 là 30 vàng cho các cá nhân. Những diễn viên được công chúng yêu mến như Minh Nghĩa, Hoàng Vương, Hoàng Anh, Văn Mậu, Kiềm Lộc, Bích Dần, Mộng Lan, Hồng Điệp, Lê Định... Thế hệ tiếp theo: Ngọc Thơ, Phi Nga, Kim Liên, Thu An, Hồng Căn, Mạnh Hải, Huyền Châu, Kiến Vinh, Mai Tư, Hoàng Thọ... Thế hệ thứ ba: Hữu Tường, Tô Hoàng, Hoài Việt, Huy Thụ, Xuân Trường, Văn Tới, Huy Thiệp, Vinh Dự, Khúc Thị Tứ... Thế hệ thứ Tư: Đăng Toàn, Thuỳ Ninh, Lê Hải, Đào Hải, Thanh Thuấn, Thanh Tú, Tô Hoàn... Lớp trẻ: Văn quý, Hoàng Vân, Kim Oanh, Kim Tuyến, Thuý Ngà, Dung Phí, Hoàng Anh, Quang Lâm, Minh Tuấn.



Đoàn Cải lương Hải Phòng là đoàn mạnh ở Bắc kỳ, có nhiều diễn viên, nghệ sĩ xuất sắc, nhiều vở cải lương nổi bật với dàn kịch mục 80 vở trên các hướng đề tài lịch sử, cách mạng, con người mới. Đoàn trải qua những giai đoạn khó khăn năm 1993, nhiều diễn viên bỏ nghề đi buôn, đoàm nghỉ diễn, sau năm 1995, phục hồi lại đến nay 2007 đoàn phát triển vững mạnh.



Đoàn Cải lương Quảng Ninh thành lập tháng 10 – 1960, tại Quảng Ninh. Đoàn có thành tích phục vụ trên quê than anh hùng, nhiều vở diễn kịp thời phản ánh cuộc sống con người vùng than sản xuất, chiến đấu, xây dựng cuộc sống mới.



Đoàn Cải lương Quảng Ninh, có nhiều vở diễn xuất sắc như Bỉ vỏ – Võ Khắc Nghiêm, Nếu như không có em - Đức Trung, Ân ái với kẻ giết người – Doãn Hoàng Giang, Người xót lại của rừng người – Nguyễn Quang Thiều (huy chương vàng năm 95), các diễn viên Thuý Nga, Thu Hương, Thế Sinh,Kim Oanh, Thu Hằng, Thanh Bình, Sĩ Hiến, Thu Thuỷ, Tiến Mác, Xuân Tần, Thanh Thanh, Kiều Loan...



Những danh hiệu, thành tích của đoàn còn khiêm tốn, nhưng đoàn đã có quá trình hoạt động nghệ thuật lâu năm, có dàn kịch mục 48 vở, nhiều vở được công chúng yêu thích.



Đoàn Cải lương Thái Bình, thành lập tháng 10 – 1954, là đoàn có truyền thống nghệ thuật mạnh, nhiều diễn viên được công chúng mến mộ. Đoàn có quá trình biểu diễn phục vụ đồng bào miền duyên hải, nhiều vở diễn phản ánh kịp thời nhiệm vụ sản xuất chiến đấu ở địa phương những năm chiến tranh ác liệt.



Sau hoà bình bứơc vào thời kỳ đổi mới, đoàn biểu diễn nhiều vở diễn được công chúng yêu mến như Huyền Trân công chúa – Văn Trọng Hùng, Thằng ngố đòi nợ phật – Xuân Yến, Tiếng hát cao nguyên – Ngọc Thụ, Trần Thủ Độ – Xuân Yến, Vĩnh biệt thời lầm lỡ – Văn An, Đêm Tiền hải – Thuỳ Linh, Người đi trước – Lưu Quang Vũ... Đoàn đã dựng 80 vở diễn, phục vụ hàng triệu người ở tỉnh nhà và các tỉnh trên cả nước. Đoàn có lớp diễn viên được công chúng yêu thích như Đăng Trình, Thu Hoà, Hoàng Dũng, Bích Ngyệt, Thanh Thuỷ, Ngọc Thuỷ, Trần Hằng, Thu Hoà, Trần Oanh, Minh Vương... Nghệ sĩ ưu tú: Bích Ngọc, Xuân Vũ.



Đoàn Cải lương Thái Bình, có truyền thống nghệ thuật biểu diễn những vở cải lương cổ bài bản có tính truyền thống, nhiều vở diễn đạt giải cao. Hiện nay đoàn đang trẻ hoá đội ngũ diễn viên, hướng cải lương với sự nghiệp đổi mới phục vụ công chúng nhiều hơn.



Đoàn Cải lương Hoa Mai thành lập ngày 24 – 7 – 1957, tại rạp hát bên Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, tiền thân là Gánh hát Cải lương Kim Sơn năm 1954 diễn ở phố Khâm Thiên Hà Nội. Mỗi giai đoạn lịch sử đoàn luôn cách tân sân khấu và nghệ thuật ca diễn theo sát hiện thực cuộc sống.



Đoàn có những vở diễn cải cách nghệ thuật như Kiều hồi II, Tú Yên Giáng Kiều, Bên xác máy bay, Lam Sơn tụ nghĩa... những vở diễn giai đoạn đầu, diễn theo đạo diễn, chống diễn cương, sáng tác nhạc vào vở mới... Đây là chủ trương đổi mới nghệ thuật của đoàn theo chủ trương ba cải của Nhà nứơc, những giai đoạn tiếp theo, đoàn cách tân, đổi mới nghệ thuật mang tính hiện đại hoá những vở cải lương cổ, phục vụ lớp người mới. Đoàn có dàn kịch mục từ năm 1957 đến 2007 là 76 vở, nhiều vở đoạt giải huy chương vàng, bạc các hội diễn, hoặc những cuộc liên hoan sân khấu như Kiều hồi II, Lửa phi trường, Trong trắng cao nguyên, Phùng khắc khoan... Cải lương Hoa Mai, là đoàn mạnh vào hàng số một ở xứ Bắc, nhưng lớp diễn viên trẻ kế tiếp những năm đầu thế kỷ mới, khó giữ nổi truyền thống này. Những giai đoạn trước đoàn có lớp nghệ sĩ giỏi hát hay như Mạnh Tưởng, Huỳnh Kim, Thanh Tâm, Tuyết Sơn, Minh Đức, Kim Oanh, Tấn Nhạc... Lớp tiếp theo Thu Hoài, Trần Hà, Mỹ Bình, Thu Thuỷ, Gia Túc, Phương Nụ, Hoàng Long, Kiều Hương, Xuân Tăng, Đình Tư, Trang Nhung, Tô Hồng, Thu Hiền, Trần Sáu, Thái Vân, Tuấn An, Tường Lan, Quang Lan, Đức Tỉnh, Quế Hồng, Bảo Phiến, Ân Chinh..., các nhạc công: Hồng Tuyết, Thu Hương, Viễn Châu, Xuân Thoả...



Đoàn Cải lương Hoa Mai có truyêng thống nghệ thuật luông cách tân nhiều vở diễn đạt chất lượng nghệ thuật, hiệu quả biểu diễn cao, có dàn nhạc mạnh, dàn diễn viên đồng đều. Lớp nghệ sĩ tài danh xứ Bắc đã nghỉ hưu, có một nghệ sĩ nhân dân: Mạnh Tưởng, 6 nghệ sĩ ưu tú lớp trước: Nhạc Tấn, Tuyết Sơn, Huỳnh Kim, Thanh Lâm, Kim Oanh, Minh Đức. Một nghệ sĩ ưu tú lớp sau Thu Hoài, còn lớp trẻ hiện nay đang phấn đấu học tập để tiếp tục sự ngiệp của đoàn. Đoàn Cải lương Hoa Mai, đang thực hiện xã hội hoá nghệ thuật, đổi mới phương thức hoạt động tiếp cận cuộc sống mới, nhằm giữ vững truyền thống của đoàn cải lương dân tộc.



Đoàn Cải lương Bông sen trắng Nghệ An, thành lập 1 – 1 – 1969 có tên gọi Đoàn Cải lương nhân dân Nghệ An, đến năm 1976, sát nhập tỉnh Nghệ An với Hà Tĩnh, đổi tên thành Đoàn Cải lương Nghệ Tĩnh. Năm 1990, tách tỉnh Hà Tĩnh ra khỏi Nghệ An, đoàn đổi tên là Đoàn Cải lương Bông sen trắng. Sau năm 2005 nghỉ diễn.



Giai đoạn chiến tranh đến 1975, đoàn dựng các vở:Bến Đò Sim, Mất xe của Nguyễn Đại, Hoàng tử Biển, Bà mẹ sông Hồng, Cha con người hát rong, Chạy trốn tình yêu... Đoàn có đội ngũ diễn viên ca diễn hấp dẫn công chúng khu vực thành phố Vinh như: Đào Quý Phi, Nguyễn Đạt, Phi Nga, Minh Goòng... Giai đoạn 1975 đến sau này có lớp trẻ: NSƯT Phi Ninh, Hoa Hạnh, Quế Chung, Ngọc Vinh, Thuỷ Kiên, Minh Tuệ, Minh Hùng, Lệ Huyền, Minh Hợi, Vân Anh... nhiều diễn viên của đoàn đạt huy chương vàng, bạc qua hội diễn, hội thi tiếng hát cải lương năm 1981 – 1994 – 1995 như: Vân Anh, Linh Lam. Thanh Hùng. Minh Tuệ, Phi Ninh, Lệ Huyền, Hồng Vân, Minh Hội. Mỗi giai đoạn lịch sử đoàn có những vở diễn xuất sắc: Tín hiệu trái tim, Bông trang trắng, Đường lên phía trước, Đường phố Sài Gòn dậy lửa, Đường ra trận, Dòng suối trắng, Nhân danh công lý, Dệt gấm, Ngõ hẹp đời em, Dành lại đứa con, Người đàn bà trả hận, Tình là bể khổ, Xôn xao rừng quế, Mắt em là bể oan cừu, Ai người phán xử, Người mất tích trở về... Đoàn Cải lương Bông sen trắng, có dàn kịch mục 45 vở, phần lớn những vở đề tài cuộc sống mới, là thế mạnh của đoàn. Đoàn có phong cách đặc biệt khi các đoàn cải lương Bắc chuyển ca tiếng Bắc, đoàn vẫn ca cải lương tiếng Nam, cả đoàn cho đó là phong cách riêng vì đoàn ở vị trí địa lý đặc biệt giao thoa văn hoá, ngôn ngữ hai miền nên không từ bỏ lối ca tiếng Nam. Đoàn có thành tích phục vụ xuất sắc trên tuyến lửa Miền Trung, những năm chiến tranh ác liệt, những vở diễn của đoàn có hiệu quả động viên mọi người hướng tới hành động xây dựng con người mới.



Đoàn Cải lương Bông sen trắng, ra đời muộn nhất trên đất Bắc, có nhiều vở diễn đề tài cuộc sống mới thành công cao, được công chúng nhiều tỉnh biết đến, nhưng đã tan rã sớm. Đoàn cải lương Bông sen trắng là một hiện tượng trong nền kinh tế thị trường, khi không có công chúng tự tan rã, đó là sự phát triển hợp quy luật.



Qua 10 đoàn cải lương Bắc ra đời, phát triển giai đoạn 1975 – 1985, nhiều biến đổi, là bước chuyển nghệ thuật cải lương. Nhiều đoàn cải lương Bắc có truyền thống biểu diễn phục vụ công chúng, với lớp diễn viên đồng đều, dàn kịch mục nhiều vở diễn phản ánh phong phú các hướng cải lương. Giai đoạn hoà bình thống nhất, sân khấu cải lương phát triển mạnh, các đoàn dựng nhiều vở cách tân, đổi mới sân khấu, nghệ thuật diễn.



Nghệ thuật diễn.



Những năm 80 của thế kỷ trước là bước chuyển nghệ thuật cả nước, chuyển từ giai đoạn nghệ thuật thời chiến sang hoà bình. Sân khấu những năm chiến tranh đề cao tinh thần chiễn đấu, ngợi ca người tốt, những tấm gương sống vì mọi người. Xây dựng mối quan hệ lối sống tập thể. Mọi tình cảm riêng tư bị coi là tư sản, tiểu tư sản, sau hoà bình ảnh hưởng nhiều điều từ cuộc sống mới, sang thời hậu chiến con người đòi công nhận những cái bị đánh mất trong quá khứ.



Sau ngày thống nhất, hàng chục đoàn cải lương Miền Nam ra Bắc diễn những vở cải lương cũ, tuy có nội dung nhưng hình thức ca diễn khác lạ thâm nhập vào công chúng một gu thẩm mỹ mới. Mặt khác toàn bộ những bài hát gọi là “nhạc vàng”, thực ra là những bản nhạc trữ tình của chế độ cũ, những cách hát của lớp ca sĩ cũ, ca sĩ hải ngoại thể hiện vàng vọt, bi luỵ, sướt mướt tan vỡ, thất vọng, toàn những bài hát anh em, yêu thương đẫm lệ, giận hờn vô lối... Những bản tình ca, những vở cải lương tình cảm, tạo không khí âm nhạc ảm đạm buồn tủi thê lương thành gu thẩm mỹ trong công chúng. Nhà nước có các ban, phòng chống văn hoá <<Từ này không được phép>>, đồi truỵ, nhưng cứ lưu hành ngoài xã hội, trong các gia đình. Lối sống hưởng thụ, đòi công nhận những tình cảm riêng tư thành một nhu cầu mới. Những bài hát ngày ấy cho là văn hoá thực dân mới, hôm nay được phục hồi không xót một bài nào trên băng đĩa, phát trên mạng, nhạc số... Tuy nhiên, phong cách hát có hai hình thức, những ca sĩ trẻ hát tươi mới, thay vào nhịp điệu pop lê thê bằng nhịp điệu rock, rap, bolero, balad... Những ca sĩ Sài Gòn cũ, hoặc hải ngoại hát nguyên si chất vàng vọt, não nề, nghe cổ lỗ, nhưng đã lưu hành ở khắp mọi nơi, ai thích thì nghe, không thích chẳng bao giờ chúng xâm nhập được. Qua đó, lại nói lên một điều, có lẽ cần có cái nhìn cởi mở với các loại hình nghệ thuật thời nay. Hiện đang tồn tại một dòng nghệ thuật hậu hiện đại, hay là dân gian hiện đại, những bài tấu, những bản nhạc, những bài luận chiến, phát tán trên mạng, ở đó là sự dân chủ thông tin. Nhiều sách đen vô cùng độc hại, nhưng mọi người biết tự bảo vệ mình, xem mà không nhiễm, còn số xem nhiễm chắc là hư hỏng. Nhưng không thể cấm được, các học sinh lớp ba, lớp bốn đã xem phim sex, những chuyện nhảm nhí... Bây giờ mỗi gia đình, mỗi người phải tự bảo vệ mình, vì thế cần có cái nhìn mới. Khi nghệ thuật xuất hiện nhiều hình thức phục vụ mọi đối tượng, mọi nhu cầu con người, chỉ có điều phải xem đúng tuổi, đúng chỗ, đúng với mình. Nghệ thuật sân khấu không có một dòng, nhiều dòng chảy khác nhau, hãy chọn đúng dòng mình, còn những dòng khác là của người khác. Sân khấu cải lương những năm 80, các đoàn cải lương: Hương nùa thu, Nhạn trắng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Hàm Luông, Sông Hiếu... diễn nững vở cũ phát triển hình thức đánh trưởng giật gân, những chuyện tình tay ba, tay tư, phục trang gợi tình, sex... Sân khấu phục hồi hình thức diễn thiếu nội dung, ca kỹ thuật chạy chữ, cải lương dung tục, ca Vọng cổ nhịp 64 thành mốt thời thượng... Trước tình hình ấy, cải lương Bắc bị mất công chúng, mất doanh thu, còn nhiều đoàn kiên định đi theo hướng của mình, ca diễn có nội dung. Nhưng các đoàn không thể cứng nhắc diễn theo nội dung cũ, hầu hết các đoàn thay đổi cấu trúc chương trình, nội dung vở diễn, dù là những vở phản ánh hiện thực mới phải tình cảm, đi vào cái tôi, cái tình cảm riêng tư con người, có một thời đánh mất nay phải công nhận. Đó là tâm lý công chúng, những đòi hỏi nghệ thuật mới của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển cải lương. Các diễn viên cải lương Bắc, giấy lên phong trào ca diễn có nội dung, ca sát tình cảm nhân vật... hướng nghệ thuật ca diễn có nội dung. Sự ảnh hưởng cải lương Nam vào ca diễn cải lương Bắc, trước những thẩm mỹ khác lạ diễn hình thức, thiếu chiều sâu, lấy giọng ca hay và trang phục đẹp... chinh phục công chúng đã tác động đễn cải lương Bắc. Diễn viên cải lương Bắc tiếp nhận lối ca ngọt mùi cải lương Nam, những hình thức trang phục đẹp đặt đúng nội dung... Từ những cái quá đà cải lương Nam vào cải lương Bắc điều chỉnh hợp lý làm cho cải lương Bắc tiến bộ mới, phù hợp công chúng. Sân khấu đẹp, vở diễn tình cảm, ca diễn nội tâm sâu sắc ngọt mùi, là những ảnh hưởng tốt của cải lương Nam vào cải lương Bắc nâng cao thành nghệ thuật hiện thực mới. Các diễn viên Bắc tiếp tục ca diễn có nội dung, ảnh hưởng đễn cải lương Nam, từng bước cải lương Nam ca diễn sâu sắc hơn. Đạo diễn xử lý những nhân vật thông qua hành động đời thường mang biểu tượng ý niệm triết học, diễn tả cái linh hồn bên trong như cảnh Hoàng Diệu vào miếu thắp hương, Hoàng tiểu thư thắp lên ngọn đèn, là thắp sáng ngọn lửa yêu nước trong lòng dân hoặc Lan cắt đứt dây chuông là đoạn tuyệt mối tình trong vở Lan và Điệp... Sau một thời gian giao thoa giữa hai dòng cải lương đem đến những nhân tố tích cực: cải lương Nam ca diễn có nội dung, cải lương Bắc ca diễn ngọt mùi, giảm dần chất kịch nói hoá vào cải lương. Vào những năm đầu phát triển ca nhạc nhẹ, cải lương Bắc hỗn loạn, mất phương hướng, các đoàn thường cấu trúc chương trình chạy theo thị hiếu công chúng. Mở đầu ca nhạc nhẹ gọi khách, sau diễn trích đoạn, tấu hài hoặc vở ngắn. Vào những giai đoạn khó khăn ấy, có những vở diễn cải lương tình cảm như Chiếc nhẫn ngọc, Hai dòng sữa mẹ, Cô gái phù tang... đó là những vở diễn ăn khách ngoài sân bãi. Trên sân khấu hội diễn 80 – 85, các đoàn cải lương Bắc, có nhiều vở diễn đề tài lịch sử, cuộc sống mới lấy lại định hướng thẩm mỹ sân khâú cải lương. Hội diễn sân khấu 80, Đoàn Cải lương Thái Bình vở đêm Tiền Hải - Thuỳ Linh, Đoàn Cải lương Hải Phòng vở Hoa đất mặn – Ngọc Thụ. Nhà hát Cải lương TW vở: Minh Khai – Nguyễn Đức Thuyết, Đoàn Cải lương Kim Phụng vở Dòng suối trắng – Trung Đông. Hội diễn sân khấu năm 1980, tổ chức thành 4 đợt (5) có 38 đoàn tham diễn 38 vở. Kịch nói 8 vở, chèo 7 vở, tuồng 4 vở, cải lương 18 vở, kịch dân ca 1 vở, đó là vở Bông trắng – Nguyễn Trường Nhẫn – Nguyễn Khắc Phục. Đoàn Dân ca kịch Thuận Hải. Các đoàn cải lương Bắc có 4 đoàn tham diễn, 6 đoàn không có điều kiện tham dự, điều đó nói lên những khó khăn của cải lương Bắc sau ngày giải phóng phải đương đầu với giá lương tiền, lấy thu bù chi... các diễn viên, nhiều đoàn không có điều kiện biểu diễn. Những khó khăn chung ngày ấy, còn nhiều đoàn kịch dân ca đã vắng mặt trên sân khấu hội diễn.

Từ năm 1975, nghệ thuật phải chia thành hai hình thức trình diễn, một loại trình diễn ngoài sân bãi doanh thu, còn loại kia là sân khấu hội diễn. Hai hình thức nghệ thuật này từ ca nhạc đến sân khấu khác nhau, trình diễn ngoài sân bãi vì doanh thu chạy theo công chúng kiếm tiền để tồn tại, diễn trên sân khấu hội diễn có đầu tư của Nhà nước, các chương trình ca nhạc, những vở diễn nghiêm hơn, nghệ thuật coi trọng những sáng tạo của nghệ sĩ, nhưng quá sạch sẽ được coi là “những tiết mục cúng cụ”. Nghệ thuật biên kịch, nội dung đề tài nhằm đúng công tác vận động tuyên truyền có tính chính trị, thời sự đang tồn tại sân khấu ngợi ca. Nghệ thuật ca diễn ngọt mùi, theo sát nội dung vở diễn mang tính định hướng thẩm mỹ nghệ thuật, nội dung đề tài phát triển cải lương... Còn sân khấu doanh thu, xô bồ mạnh ai tự làm, miễn là không vi phạm tới những điều cấm kỵ, còn đăng ký vở một đằng tới diễn vở khác để doanh thu là chuyện bình thường. Sân khấu sân bãi chạy theo công chúng, diễn hình thức, ca nhạc vàng khá nổi cận, bị dư luận lên án, không ít đoàn đánh mất mình chạy theo doanh thu. Thường những vở hội diễn xong xếp vào kho, các đoàn chạy theo cách làm ăn khác để tồn tại, nhưng mỗi lần hội diễn có ý nghĩa to lớn:

Lấy lại tinh thần sân khấu
Định hướng nghệ thuật
Nhìn nhận tình hình các đoàn, đội ngũ diễn viên



Hội diễn đem lại nhiều thông báo về hoạt động sân khấu, qua hội diễn bộc lộ những thuận lợi khó khăn, trình độ nghệ thuật, hướng đào tạo, nghệ thuật diễn... Hội diễn là những thông báo về sân khấu hiện tại, nhưng cái yếu nhất qua nhiều hội diễn lại chưa đi sát thực tiễn nghệ thuật của công chúng. Sân khấu hội diễn và công chúng luôn là khoảng cách, điều đó là yếu điểm của sân khấu hội diễn chưa dám nhìn thẳng

....................................................................................................................

(5) Theo công báo Cục Nghệ thuật biểu diễn



vào sự thật ở nhưng năm đầu xây dựng hoà bình, thống nhất đất nước. Các nhà quản lý còn chủ quan duy lý, áp đặt tuyên truyền đường lối, chưa coi trọng sân khấu giải trí, thậm chí chưa có văn nghệ, sân khấu giải trí. Quản lý chưa theo kịp thực tiễn xã hội, khi sân khấu sân bãi diễn một đằng chạy theo công chúng, hội diễn làm một nẻo để làm gương mà chẳng ai theo. Sau đó, dẫn đến sự phản ứng nhiều đoàn cải lương ngầm không tham dự hội diễn với lý do khó khăn... nhưng có nghệ sĩ, có đoàn nói thẳng: tội gì tham diễn để đổi vàng thật lấy vàng giả. Họ nói thế vì nhiều đoàn, nhiều diễn viên diễn doanh thu cao như các đoàn Minh Cảnh, Tấn Tài, Sài Gòn I, II, I



II... hoặc các diễn viên nổi tiếng nếu vào hội diễn có thể bị bạc hoặc không được giải gì, nên họ không tham dự là lối thoát bảo vệ uy tín cho họ, có tính thực dụng hơn.



Sân khấu cải lương có hai hình thức nghệ thuật diễn khác nhau, diễn trên hội diễn mang tính học thuật, diễn ngoài sân bãi mang tính thực tiễn, hợp công chúng doanh thu cao để cải thiện đời sống mỗi diễn viên và các đoàn cải lương.



Hội diễn sân khấu cải lương 1985, có 14 đoàn cải lương Miền Nam, Miền Trung tham diễn. Sân khấu hội diễn toàn quốc lần hai sau ngày thống nhất đất nước có 59 đoàn, dân ca 8 đoàn, kịch nói 14 đoàn (6), chèo 8 đoàn, tuồng 9 đoàn, cải lương 20 đoàn. Riêng hai trường sân khấu điện ảnh không dự thi, chỉ tham diễn chào mừng hai vở, tổng số vở diễn lên 61 vở của 61 đoàn sân khấu. Những con số tham diễn lần thứ hai, nói lên sự hùng mạnh sân khấu giai đoạn hoàng kim nghệ thuật.



Hội diễn cải lương qua 5 đợt, đợt một tại Thanh Hoá, đợt hai Thành phố Hồ Chí Minh, đợt ba Quy Nhơn, đợt bốn Thành phố Vinh, đợt năm Thành phố Cần Thơ. Cải lương Bắc có 6 đoàn tham diễn: Đoàn Cải lương Chuông vàng vở Trái tim trên lửa hung tàn – Tấn Đạt, Đoàn Cải lương Kim Phụng vở Hai phương trời thương nhớ – Trung Đông, Đoàn Cải lương Hà Nam Ninh vở Hoa đá – Trung Đông, Đoàn Cải lương Thanh Hoá vở Ngôi sao trong đêm – Nhật Tân, Đoàn Cải lương Hải Phòng vở Tiếng gọi – Nguyễn Đình Chính, Đoàn Cải lương Thái Bình vở Người đi trước – Lưu Quang Vũ. Hội diễn sân khấu 1985, bùng nổ sân khấu tâm sự đồng hành cùng công chúng. Những vở cải lương, kịch nói, chèo, dân ca nói thẳng nói thật, phản ánh những bất công xã hội người ngay sợ kẻ gian, lối làm ăn quan liêu, cổ hủ. Những vở diễn thể hiện một xã hội bưng bít thông tin, lớp quan lại ô dù che chắn những việc làm tội ác, sân khấu xuất hiện một mảng hiện thực xã hội đen tối. Đây là những vở diễn được công chúng vô cùng hâm mộ, bởi lâu nay không ai dám nói sự thật được che đạy như bóng đêm giữa ban ngày. Sân khấu đã nói hộ cùng công chúng, công chúng chạy đến

..........................................................................................

(6) Theo công báo Cục nghệ thuật biểu diễn



Sân khấu dốc bầu tâm sự, là bước đột phá mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước vào năm 1986. Những vở diễn tại hội diễn chấn động dư luận như Người tốt nhà số 5 – Lưu Quang Vũ, Đoàn Chèo hà Sơn Bình, Lý Nhân Tông kế nghịêp, Đoàn Chèo Tổng cục Hậu Cần, Dốc sương mù - Lê Duy Hạnh, Đoàn Văn công Thành phố Hồ Chí Minh, Ký hoạ người đồng bằng - Lê Duy Hạnh, Đoàn Cải lương Cửu Long, Người đi trước - Lưu Quang Vũ, Đoàn Cải lương Thái Bình, Tiếng gọi - Nguyễn Đình Chính, Đoàn Cải lương Hải Phòng, Người giữ mộ – Phi Hùng, Đoàn Cải lương Đồng Tháp... Hàng chục vở diễn nói về cuộc sống mới như gió đổi chiều. Sân khấu hội diễn hướng mọi người đổi mới, ủng hộ “ những người đi trước”, những người dám nhìn thẳng vào sự thật, hành động vượt rào, đó là lớp trẻ hôm nay như những nhân vật trong các vở cải lương, được công chúng đón nhận. Tác giả Lưu Quang Vũ, đạo diễn Doãn Hoàng Giang, Tào Mạt, Phi Hùng, Lê Duy Hạnh... là những người mở đường đổi mới sân khấu. Sân khấu hội diễn không phải là những tiết mục cúng cụ, là sân khấu đại diện cho tiếng nói của nhân dân. Tuy trong số 61 vở tham diễn chỉ có 15 vở phản ánh hiện thực mới, Lưu Quang Vũ có nhiều vở phản ánh hiện thực như Tôi và chúng ta, Nhân dânh công lý, Người đi trước, Người tốt nhà số 5... gây chấn động dư luận. Những vở kịch nói, chèo, cải lương của Lưu Quang Vũ tại hội diễn là bước đổi mới phương thức sân khấu phản ánh hiện thực xã hội.



Sân khấu cải lương Bắc có những khoảng thời gian công chúng không quan tâm, dù nghệ thuật diễn đổi mới, nguyên nhân từ tác phẩm sân khấu, qua hai đợt hội diễn sau ngày thống nhất đã nói bước chuyển đổi thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Hội diễn lần thứ nhất, công chúng không quan tâm bởi có “những tác phẩm cúng cụ”. Hội diễn lần thứ hai, công chúng hào hứng đón nhận, vì nói lên những điều họ đang mong đợi. Nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội, đây là bước chuyển sân khấu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật. Nghệ thuật diễn sân khấu cải lương có hai hình thức, diễn ngoài sân bãi chạy theo công chúng, tính học thuật không cao. Những vở diễn trong hội diễn thường là định hướng các mặt của sân khấu, đôi khi còn cách xa công chúng, nhưng đã có những hội diễn hoà nhập cùng ý nguyện khán giả. Tuy vậy, sân khấu cải lương luôn có hai hình thức biểu diễn, hình thức biểu diễn trên sân khấu hội diễn đổi mới, nâng cao nghệ thuật ca diễn. Mỗi lần hội diễn sân khấu cải lương có những tiến bộ qua quá trình diễn giữa các đoàn, qua dư luận báo chí, giúp các đoàn nhìn nhận rõ hơn. Nghệ thuật diễn cải lương Bắc từ hội diễn lần thứ hai năm 1985, có những tiến bộ, diễn nội tâm sâu sắc, nói đài từ, ca mùi hơn. Nhiều vở diễn hướng tới công chúng, nghệ thuật diễn thể hiện hình tượng, tính cách nhân vật có ngôn ngữ cải lương, kết hợp với trang trí sân khấu về âm nhạc. Sau hoà bình thống nhất, cải lương Bắc đã đổi mới nghệ thuật.



1.2.Âm nhạc, mỹ thuật.

a. Âm nhạc.



Ca nhạc cải lương Bắc thường cách tân đồng bộ theo nhạc, gọi là cách tân nhưng chưa có ca sĩ nào được suy tôn là những giọng ca vàng dù họ đã đoạt giải vàng. Những giai đoạn 30 – 54, còn nhiều diễn viên gạo cội, càng về sau ca cải lương Bắc chuyển sang hướng khác ít có sao dẫn đến không có diễn viên hạng sao về ca.



Nhiều thập kỷ ca diễn tự do những năm 65 – 2007, các nghệ sĩ diễn viên luôn cách tân ca nhạc nhưng tập chung vào các hướng ca các điệu lý, các bài dân ca Bắc Bộ vào cải lương, ca bài Vọng cổ xoay quanh các điệu lý, nói lối... Cách tân ca nhạc liên tục nhưng không diễn viên nào bứt phá về kỹ thuật ca bài Vọng cổ. Những thành công bứt phá cao, thường xuất hiện các diễn viên cải lương Nam, nhiều người gọi tên bài Vọng cổ với tên diễn viên. Đây là sự khác biệt kỹ thuật ca cải lương Nam - Bắc. Ca cải lương Bắc tập chung ca theo tâm trạng nhân vật, chưa chú ý riêng kỹ thuật ca, từ những năm 1990, nhiều đạo diễn vào cải lương lại phá bỏ các ngôi sao, dựng vở theo lối đồng diễn tập thể, kỹ thuật ca cải lương và bài Vọng cổ ít phát triển, không có diễn viên ngôi sao sáng về nghệ thuật ca. Ca cải lương Bắc đi cùng dàn nhạc, nặng về tính hoà tấu nhịp điệu dàn nhạc, vào những thập niên 60 – 80, nhiều đoàn có dàn nhạc từ 15 đến 20 nhạc công. Đó là giai đoạn hưng thịnh cải lương Bắc, đề cao nhạc đan tộc, dàn nhạc có đủ loại như ghi ta lõm phím, nguyệt tranh, cò... nhiều đàn dân tộc khác cùng hoà tấu bài bản.



Phần dàn nhạc cải lương Bắc, hoà tấu dàn nhạc cả dàn nhạc dân tộc, lấy số đông các nhạc cụ dân tộc hoà tấu coi đây là thành công theo đường lối phát triển ca nhạc dân tộc. Nhưng thực chất người ta đã xoá những đặc tính riêng của dàn nhạc cải lương, với dàn nhạc dân tộc, đó là hai đặc tính khác nhau. Từ dàn nhạc nhiều vở cải lương viết nhạc dân tộc theo lối hoà tấu dàn nhạc giao hưởng, nhạc kịch opera, opretter, có thời định giao hưởng hoá ca nhạc sân khấu dân tộc, và nhạc dân tộc. Những sai lầm này, làm cho ca nhạc cải lương Bắc chậm phát triển đặc tính dân tộc trong ca nhạc cải lương. Sau năm 1985, ca nhạc cải lương Bắc phát triển loại bỏ dàn nhạc dân tộc, bỏ lại sự phát triển dàn nhạc cải lương. Phần ca, dàn nhạc cải lương Bắc luôn cách tân nhưng không đúng hướngvì có những thời chạy theo các nhà chính trị, tiếng nói chuyên môn đành im lặng. Những ưu điểm ca nhạc cải lương Bắc đạt được viết nhạc nghiêm chỉnh từng vở diễn, tư duy giai điệu diễn tả sâu sắc, hoà tấu dàn nhạc, hoà thanh phối khí hiện đại. Ca hát - hoà tấu nhạc – nghệ thuật diễn đồng biểu cảm tình huống sân khấu, tâm trạng nhân vật, đó là đặc điểm ca nhạc cải lương Bắc. Dù có những giai đoạn, những vở diễn viết nhạc, hướng phát triển dàn nhạc lầm lạc, nhưng các đoàn sớm nhận ra trả lại ca nhạc cho cải lương là sự diễn tả vở diễn.



Ca nhạc cải lương Bắc những năm hoà nhập cải lương Nam đã trả lại ca nhạc sân khấu cải lương, ca diễn ngọt mùi, dù lấy nghệ thuật đồng diễn tập thể làm chính, cải lương Bắc có những vở diễn, những đoàn thành công. Đây là sự khác bịêt hai dòng cải lương Nam – Bắc, mỗi dòng có thành công riêng về ca nhạc.



b.Mỹ thuật, phục trang.



Mỹ thuật cải lương Bắc đổi hướng mới theo hướng chính quy hiện đại, mỗi đoàn mỗi vở diễn có những thành công riêng. Mỹ thuật cải lương Bắc hướng tới sân khấu hiện đại, trang trí mảng khối như kịch nói.



Mỹ thuật sân khấu nhiều cách tân khi có bàn tay các nhà đạo diễn kinh nghiệm, sáng tạo ngôn ngữ hành động nhân vật... Sân khấu trang trí mảng khối với những phối cảnh phức tạp như cảnh Thi Sách bị treo trên cổng thành luy lâu trong vở Trưng Vương, ngoại cảnh, nội cảnh qua các mảng trang trí mở ra, khép lại, chuyển đổi không gian... Có những thử nghiệm sân khấu quay, tạo hai mảng diễn quá khứ, hiện tại, bên này, bên kia như đồng hiện cùng nghệ thuật diễn. Sân khấu giảm đi những hình thức chuyển cảnh, tạo ra cảnh mới bằng sân khấu quay, nối quá khứ với hiện tại. Cảnh trí ước lệ một cái cầu, một dòng sông có thể diễn các cảnh đi qua thời gian và hiện tại. Trang trí mỹ thuật cải lương những năm 80, tả thực – ước lệ, nhưng tiến bộ cao hơn xử lý không gian, cải tiến đạo cụ cảnh trí, kỹ thuật sân khấu, kết hợp cơ khí thủ công đem lại cảm thụ chân thực, mới lạ. Nhiều vở diễn trang trí mỹ thuật hoành tráng như vở Lý Thường Kiệt, Cải lương Hoa Mai Dòng suối trắng – Cải lương Kim Phụng, Khi thành phố lên đèn – Cải lương TW... Mỗi vở diễn một hình thức trang trí cách tân sân khấu, mục đích làm mới sân khấu cải lương hấp dẫn công chúng. Vở Lý Thường Kiệt, cảnh trí cao rộng, sâu thẳm, hoạ sĩ Phùng Huy Bích trang trí mô típ tả thực, sân khấu không đóng màn. Các cảnh diễn liên tục từ đầu đến kết thúc vở, phần nội ngoại cảnh không chuyển cảnh theo lối đóng màu, sử dụng dây kéo dòng dọc chuyển cảnh. Lại có vở thay đổi cảnh trí bằng chiếu phim trên phông hậu, khi chuyển cảnh thả phông xuống... Sân khấu cải lương giai đoạn hoà bình thống nhất đổi mới trang trí, đạo cụ và kỹ thuật san khấu cơ khí, thay cho sân khấu thủ công. Tuy chỉ là những thử nghiệm, nhưng nhiều vở diễn thành công hé mở hướng mới, phát triển kỹ thuật sân khấu, mỹ thuật ánh sáng, phục trang... Nhưng chỉ tiếc là những sáng tạo ấy không trở thành một khuynh hướng sân khấu của một đoàn có tính bền vững. Mỗi hình thức đổi mới mỹ thuật, kỹ thuật sân khấu chỉ ở một số vở diễn có tính thử nghiệm. Nhưng từ khi thế hệ đạo diễn phát triển mạnh vào sân khấu, những tên tuổi như Ngọc Dư, Đình Nghi, Doãn Hoàng Giang, Lê Chức... xông vào cải lương, sân khấu cải lương đã đổi mới. Sân khấu cải lương những năm cuối thế kỷ XX, sân khấu của đạo diễn, nghệ thuật diễn, mỹ thuật phục trang, âm nhạc... chuyển hoá theo đạo diễn. Từ đây không thể không kể đến tên tuổi các tác giả, đạo diễn sân khấu cải lương.



Sân khấu cải lương Bắc đổi mới toàn diện, mỹ thuật phục trang thể hiện đặc tính nhân vật, hiện thực lịch sử, sự thật xã hội ít được coi trọng, sân khấu cải lương đang chuyển hoá tìm những thử nghiệm mới.



Lịch sử cải lương 10- hết
Tuấn Giang

II. Sân khấu cải lương Nam

Hoạt động các đoàn cải lương

Giai đoạn 1975 – 1985, nằm trong sự phát triển sân khấu cải lương, Bắc – Nam – Trung xuất hiện nhiều đoàn cải lương. Sân khấu cải lương Nam có hai hình thức tồn tại các đoàn cải lương, một là những đoàn tư nhân dưới chế độ cũ, hai là đoàn cải lương Nhà nước, đoàn Văn công Giải phóng, những đoàn mới thành lập do Nhà nước bao cấp.

Những đoàn cải lương tư nhân, tự do ra đời, các huyện, xã tự thành lập đoàn đi diễn doanh thu, có thu thì tồn tại, không doanh thu đủ chi thì tan rã. Phong trào diễn cải lương ngoài sân bãi doanh thu lan tràn khắp cả nước, nhiều địa điểm cấm kỵ như Nhà hát lớn Hà Nội, Hội trường Ba Đình, sân Hàng Đẫy, bị các đoàn cải lương nam biến thành sân bãi cải lương diễn doanh thu. Những đoàn diễn ngoài sân bãi phục hồi lại những vở cải lương Sài Gòn cũ, phần lớn là những vở cải lương tình cảm, những mối tình đẫm lệ, tay ba, tay tư, trắc trở như Tiếng đàn trên sông lạnh, áo cưới trước cổng chùa, Hoàng tử tranh hôn, Mối tình Lan Điệp, Thân thù trên đỉnh núi, Gái bán hoa, Giá quê, Hai chiều ly biệt, Trả hận, Thân thù trên đỉnh núi... Những đoàn diễn ngoái sân bãi dù là đoàn Nhà nước, hay tư nhân cứ chạy theo doanh thu, diễn các lọai cải lương ca hát vàng vọt bi luỵ, sướt mướt, đánh trưởng giật gân, phục trang lộng lẫy trung tính, mốt thời thượng. Sân khấu phục trang không coi trọng hiện thực, coi trọng cái đẹp, mốt thời thượng. Dù là nhân vật Việt nhưng đầu Hồng Kông, váy áo Hồng Kông, trang phục Tầu, Tây...Đó là những mốt mà các diễn viên cho là đẹp cứ hoá trang, phục trang lên sân khấu. Ngoái sân bãi diễn lộn xộn, các vở diễn không kiểm duyệt, các đoàn mua đào, bán kép, đút tiền giữ bãi để lưu diễn, Từ lâu đã có luật bất thành văn, lúc đầu mỗi đoàn ký hợp đồng sân bãi, nộp cho người ký 10% tổng doanh thu. Nếu đoàn nào cũng nộp đúng như thế là chuyện bình thường, nhưng quá nhiều đoàn diễn, làm sao có sân bãi, lại có tình trạng “đi đêm” , nhiều đoàn nộp tới 15% cho người ký hợp đồng sẽ được diễn nhiều hơn. Như vậy, mỗi doàn muốn diễn phải nộp lệ phí 20% sân bãi, đây là khoản tiền công khai thu cho các nhà Văn hoá, các sân bãi, còn 10 – 15% là nộp riêng cho người ký hợp đồng bỏ túi. Trung bình mỗi đoàn hát phải nộp từ 30 – 40% số tiền tổng doanh thu, nhưng còn lãi xuất cao, vì đây là vào giai đoạn hoàng kim nghệ thuật. Chính tác giả từng làm bầu ca nhạc, ký hợp đồng với các chủ tịch công đoàn, thường nộp 10% riêng cho các chủ tịch công đoàn, đó là giai đoạn đầu. Giai đoạn sau không nộp 10% mà theo thoả thuận, ví dụ một chương trình ký là 20.000.000đ, bầu lấy 15.000.000đ, để chi phí diễn viên, nhạc công, còn lại bầu hưởng tất, riêng 5.000.000đ chi cho người ký. Có nhà máy tác giả lĩnh tiền xong không chi lại, từ đó bị cấm cửa không bao giờ vào được nhà máy ấy, đó là luật chơi nghiệt ngã của cái thời bung ra mở cửa “tự cứu lấy mình”.

Sự lộn xộn sân bãi doanh thu, những cách làm ăn tiêu tiền chùa của cái thời nửa bao cấp nửa thị trường, nghệ thuật chạy theo đồng tiền, sân khấu cải lương phi nghệ thuật. Cuộc sống nhiều bức xúc xã hội, sân khấu cải lương hội diễn đã phản ánh những mảng tối của xã hội. Sân khấu hội diễn 1980, là sân khấu đích thực lấy lại nghệ thuật, lấy lại nội dung, định hướng phát triển cải lương và thẩm mỹ nghệ thuật. Mỗi lần hội diễn đem lại hào khí mới cho giới cải lương và công chúng, hội diễn lần thứ hai nhiều đoàn cải lương tham diễn. Hội diễn năm 1980, các đoàn cải lương Nam tham diễn lần đầu tiên hoà nhập cải lương Nam – Bắc trên một sân chơi đua tài.

Đoàn Cải lương Đồng Nai vở Hồn thơ non nước – Văn Du, Đoàn Cải lương Thanh Nga vở Bóng tối và ánh sáng – Ngọc Linh – Hoa Phượng, Đoàn Cải lương Sông Hàn vở Gió và bụi – Hoàng Yến, Đoàn Cải lương Sài Gòn I vở Người ven đô - Minh Khoa, Đoàn Cải lương tuồng cổ Minh Tơ vở Dưới cờ Tây Sơn – Trúc Đường, Đoàn Văn công giải phóng vở Tiếng sóng rạch gầm – Ngọc Linh, Đoàn Cải lương Tiền Giang vở Ngọn cờ đầu – Nguyễn Thành Châu, Đoàn Cải lương Hương Tràm vở Giọt máu oan cừu – Trọng Nguyễn, Đoàn Cải lương Kiên Giang vở Bên vòng tay mẹ – Mai Khắc Trầm, Đoàn Cải lương Cửu Long vở Chân trời rực sáng – Kiên Tâm, Đoàn Cải lương Tây Ninh vở Công chúa An Tư – Thái Hồng, Thanh Hiền, Đoàn Cải lương Sông bé vở Hoa hồng Nhật Tảo – Hoài Việt, Đoàn Cải lương Đồng Tháp vở Tìm lại đứa con – Huỳnh Minh Nhị, Đoàn Cải lương Hậu Giang vở Thủ phạm là ai – Phong Triều.

Tham dự hội diễn lần đầu, Miền Nam 13 đoàn, 1 đoàn Miền Trung, giải thưởng huy chương vàng có ba vở: Dòng suối trắng - Đoàn Cải lương Kim Phụng, Người ven đô - Đoàn Cải lương Sài Gòn I, Ngọn cờ đầu - Đoàn Cải lương Tiền Giang. Giải bạc trao cho 5 đoàn: Thái Bình, Thanh Nga, Sông Hàn, Hương Tràm, Kiên Giang. Qua hội diễn thông báo ít nhất là ba điều, một là số đoàn cải lương tham dự đông hơn cải lương Bắc, có đoàn Nhà nứơc và tư nhân cùng tham diễn trên một sân chơi, số giải thưởng hạn chế không mưa huy chương như các đợt hội diễn sau, đa phần những vở diễn đề tài cuộc sống đương đại, nói lên cải lương Nam phát triển mạnh, hướng tới xây dựng nền nghệ thuật mới. Sân khấu hội diễn khẳng định nghệ thuật cải lương góp phần lấy lại thẩm mỹ nghệ thuật, nhằm chống lại những khuynh hướng cải lương thương mại ngoài sân bãi, dù còn là sân khấu ngợi ca, ít đoàn lấy đó làm theo, nhưng là những bài học cảnh tỉnh giúp mọi người, mỗi đoàn nhìn nhận lại nghệ thuật cải lương. Dù diễn doanh thu, chạy theo công chúng, phải giữ lấy phẩm chất mỹ học của nghệ thuật cải lương.

Nghệ thuật diễn.

Nghệ thuật diễn cải lương Nam sau ngày thống nhất còn nhiều lối diễn hình thức, khoe giọng ca hay, khoe trang phục đẹp, hớ hênh gợi tình. Những buổi diễn ngoài sân bãi chạy theo doanh thu của các đoàn cải lương Sài Gòn cũ đã nói lên nhiều điều, còn các đoàn Nhà nước diễn giao lưu tại các Nhà hát chưa thoát khỏi lối diễn xưa cũ. Đến hội diễn năm 1980, sau cuộc cải tạo nghệ thuật từ kịch bản đến đạo diễn, mỹ thuật phục trang... các đoàn có nhiều tiến bộ.

Những vở cải lương hội diễn, các đoàn cải lương Nam bắt đầu đi vào nghệ thuật diễn có nội tâm nhân vật, nội dung tác phẩm. Các đạo diễn, diễn viên chú ý ca diễn theo sát tình cảm tâm trạng nhân vật, diễn biểu hiện nội dung hiện thực tác phẩm. Dù ở đâu đó còn một số diễn viên để đầu Hồng Kông, trang phục lạc điệu, nhưng thành công chính của các đoàn đã hướng vào nội dung tác phẩm. Nhiều diễn viên cải lương Nam như Thanh Kim Huệ, Bạch Tuyết, Lệ Thuỷ, Phượng Liên, Diệp Lang, Kim Cúc... ca diễn tình cảm được công chúng nhiệt thành ngưỡng mộ. Nghệ thuật diễn sáng tạo, tìm ngôn ngữ hành động diễn tâm lý, hình thể biểu cảm từng động tác, một ánh mắt nhìn, một cái xoè quạt e lệ... So với ngày đầu giải phóng, diễn ở giữa Nhà hát lớn tự nhiên đứng ra trước micrô ca bài Cây sầu riêng trổ bông với trang phục đẹp, một vai diễn thay đến năm lần trang phục..., đến những năm 80, diễn viên diễn sâu sắc nội tâm hơn. Nhiều diễn viên các ban hát cải lương Sài Gòn không còn băn khoăn về ca diễn ngoại hình như trước thường lấy đó làm mẫu, bây giờ các diễn viên ca diễn hồn nhiên đi sâu nội tâm tình cảm nhân vật, đến thập niên 90, Bạch Tuyết, Thanh Kim Huệ, Phượng Liên, Thanh Sang, Thanh Tuấn... Các diễn viên trở thành những nghệ sĩ lớn diễn tình cảm, sâu sắc, độc đáo sáng tạo ngôn ngữ hành động nội tâm đạt tới đỉnh cao nghệ thuật.

Nghệ thuật diễn các diễn viên cải lương Nam tại hội diễn lần thứ nhất là bước ngoặt lịch sử đổi mới các hình thức ca diễn từ nghệ thuật cải lương chế độ cũ sang nền cải lương hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các tác giả, đạo diễn, diễn viên đang lột xác hồi sinh, bám sát hiện thực cuộc sống mới thể hiện trái tim tình cảm mới bằng nghệ thuật ca diễn cải lương dân tộc – hiện đại.

Âm nhạc, mỹ thuật

a. Âm nhạc.

Âm nhạc cải lương vào giai đoạn phát triển ca nhạc nhẹ tràn lan trên mọi miền đất nước, đã có nhiều thay đổi dàn nhạc, ca hát. Sau năm 1979, các ban ca khúc chính trị ra đời chống chiến tranh Bành trướng, đến năm 1980, nhiệm vụ tuyên truyền hết, các ban ca khúc chính trị tan rã, đã đạt mục đích nhưng tuyên truyền ca nhạc thành công. Nếu công khai tuyên truyền ca nhạc nhẹ sẽ bị cấm, bị giải tán, bị truy xét. Ngày ấy, các nhà quản lý, tuyên huấn và đại bộ phận công chúng coi ca nhạc nhẹ là sản phẩm văn hoá thực dân mới. Nên các ban ca khúc chính trị ca diễn nhạc nhẹ bằng các bài hát tuyên truyền chính trị, chống chiến tranh, ca ngợi quê hương, bảo vệ tổ quốc... được mọi giới đồng tình. Sang năm 1980, các ban nhạc nhẹ nghiệp dư ra đời không ai bận tâm nữa, các đài giới thiệu ca nhạc nhẹ... được chấp nhận.

Ca nhạc nhẹ xâm nhập đến các vùng cao hải đảo biên giới xa xôi, ngăn không được buộc phải công nhận, ca nhạc nhẹ vào cải lương. Công lớn của các ban nhạc cải lương xây dựng dàn nhạc dân tộc chính quy đồ sộ bị sụp đổ tận gốc, vào thời giá lương tiền, chuẩn bị bước sang thời kỳ đổi mới các đoàn giảm nhẹ biên chế, các nhạc công dân tộc ở các đoàn cải lương, đoàn xiếc, đoàn văn công, thất nghiệp đổ vỡ từng mảng. Các đoàn cải lương biên chế lại dàn nhạc, mỗi đoàn thường có hai ba nhạc công dân tộc, ghi ta lõm, đàn nguyệt, nhị hoặc đàn tranh, sáo, có thứ này giảm thứ kia. Mỗi đoàn chỉ có hai ba nhạc cụ dân tộc, trừ Nhà hát Cải lương thì dàn nhạc thường có từ 8 đến 12 người, biên chế thành hai dàn nhạc. Dàn cổ nhạc cải lương ba bốn nhạc cụ, dàn tân nhạc từ 3 đến 5 nhạc cụ. Dàn tân nhạc thường có những nhạc cụ chính Trống Jazz, đàn ghi ta săng, ghi ta bass, thường thấy trong các đoàn cải lương cấp tỉnh. Còn những đoàn có điều kiện, dàn tân nhạc thêm đàn organ, kèn trompette, clarinette, sáo Flutte... Đây là mốt thời thượng, thường có hai dàn nhạc tân cổ phổ biến từ Nam ra Bắc, hầu hết các đoàn cải lương phải có, không có không hấp dẫn doanh thu. Những năm 80, các đoàn cải lương trước khi diễn thường ca nhạc nhẹ, diễn trích đoạn, nhiều đoàn thuê ca sĩ ca nhạc nhẹ đến diễn, đông khán giả mới diễn cải lương. Dựng vở mới, phải viết nhạc, nhiều nhạc sĩ tính số nhịp khí nhạc, số bài hát để lấy tiền. Ca nhạc cải lương bị lạm dụng ca nhạc nhẹ, hoà tấu nhạc nhẹ inh tai nhức óc. Nhiều người phàn nàn về các dàn tân nhạc cải lương hoà tấu ầm ĩ, dư luận lên án mãi không sửa được. Ca nhạc cải lương sa đà hình thức, lấy âm nhạc lấn át sân khấu. Bên cạnh những hiện tượng quá khích, ca nhạc cải lương có nhiều tiến bộ, nghệ thuật hoà tấu dàn nhạc, kỹ thuật ca hát nhịp điệu mới, vì hoà theo tiết tấu nhạc nhẹ, những làn điệu cải lương ca nhanh hơn hoà nhập chung vào nhịp điệu ca nhạc. Đây là bước đổi mới ca nhạc cải lương, đổi mới dàn nhạc, đổi mới sáng tác khí nhạc, kỹ thuật hoà tấu âm nhạc, kỹ thuật ca... đem đến sân khấu ca nhạc cải lương không khí ca nhạc mới, ca nhạc nhẹ phương Tây hiện đại – nhạc nhẹ Mỹ. Kỹ thuật ca phát triển hai đặc điểm, ca Vọng cổ xoay quanh điệu lý, nói lối gối bài ca – ca Vọng cổ với các ca khúc mới theo nhịp điệu nhạc nhẹ. Nhạc nhẹ vào nước ta đầu tiên các điệu slow, slow sun, cha cha cha, pop, bolero, rock, disco. Ca cải lương có bước tiến mới ca tân nhạc, là kỹ thuật ca các diễn viên cải lương phải học theo lối ca cải lương hoá những bài tân nhạc. Vì những khó khăn ban đầu, nhiều đoàn diễn các vở cải lương sáng tác nhạc mới mời ca sĩ nổi tiếng hát thu băng riêng để phát thay cho diễn viên cải lương. Từ những năm 90 cuối thế kỷ XX, sự thuê mướn lai ghép này mới giảm dần, tiến đến tự hát tự ca diễn tân cổ của các diễn viên cải lương.

Ca nhạc nhẹ vào cải lương, cải lương Bắc xoá nhoà quan điểm dân tộc hình thức xưa cũ, định hướng sai của các nhà quản lý văn hoá bảo thủ.Còn cải lương Nam như diều gặp gió, vì họ có truyền thống ca nhạc nhẹ từ lâu bây giờ được dịp bung ra, các tay ghi ta săng hốt những câu nhạc chạy ngón như múa trên đàn trổ tài trước công chúng với điệu ca Vọng cổ chạy chữ nhịp 64 từ năm 1985, làm mọi người mê hồn. Dù ca chạy chữ là hình thức xáo rỗng, nhưng lúc đầu xuất hiện hình thức ca mới, các diễn viên cải lương Nam được công chúng đồng tình hào hứng đón nhận. Đây là một thành công cao, sáng tạo kỹ thuật ca Vọng cổ dù chỉ số ít người thành công. Về sau hình thức ca Vọng cổ nhịp 64, không được hưởng ứng có hai nguyên nhân, nguyên nhân hàng đầu là giới báo chí phê phán lối ca hình thức. Nguyên nhân thứ hai công chúng nghe mãi một lối ca lặp đi lặp lại sẽ nhàm chán, tự họ không cảm thụ nữa. Nghệ thuật ca nhạc nếu thành công cao ngay lập tức thường không bền, điều đó như quy luật của nghệ thuật. Những gì có thời gian ngấm vào công chúng sự thành công sẽ lâu hơn. Trong ca nhạc nhẹ xuất hiện điệu Lam ba đa năm 1995, nổi tiếng khắp thế giới, tạo ra một vụ kiện bản quyền bắt bồi thường 2.000.000$, nhưng sau ba năm tự nó biến khỏi thế giới nhạc nhẹ, đến nay không ai nhắc tới điệu Lăm ba đa. Ca Vọng cổ nhịp 64 nổi tiếng làm nhiều người kinh ngạc đến nay chẳng ai muốn nghe, không nghệ sĩ nào hát nhịp điệu ấy nữa.

Ca nhạc cải lương Nam Bắc hoà nhập có những thành công đổi mới cấu trúc dàn nhạc, kỹ thuật ca, từ bỏ mọi hình thức ca kỹ thuật đơn thuần chuyển thành ca kỹ thuật có nội dung. Ca nhạc cải lương Nam từng bước dần từ bỏ lối ca vàng vọt hình thức, tiến gần đến nghệ thuật ca diễn tình cảm chân thực.

b.Mỹ thuật, phục trang.

Mỹ thuật cải lương những năm đầu hoà bình thống nhầt, các đoàn cải lương Nam trang trí tả thực, tả thực chi tiết, tạo vẻ đẹp hấp dẫn lộng lẫy.

Những vở diễn ngoài sân bãi, trang trí đẹp nhưng cảnh trí ít, mỗi vở ba bốn cảnh, trang trí trung tính. Ngay những vở tham dự hội diễn nhiều vở trang trí trung tính, cảnh trí tả thực, những chi tiết như cây lá, cành cây, gân lá, răng cưa... nhưng cảnh trí không cụ thể ở thời nào, sân khấu cốt làm đẹp, không tả chân theo lối hiện thực. Phục trang nhiều vở diễn không theo hiện thực vở mà theo mốt thời trang, các kiểu quần áo, đầu tóc, túi xách... theo thời trang cuộc sống, mốt Hồng Kông, Tây Âu.

Phục trang những vở cải lương cổ trung tính, phục trang đẹp nhưng không rõ nhân vật thuộc thời nào. Mỹ thuật phục trang các đoàn cải lương Nam trang trí tả thực – ước lệ – trung tính. Mỹ thuật hấp dẫn đi cùng ca diễn, đáp ứng công chúng thích cái đẹp thời trang. Dù có nhiều tiến bộ, nhưng còn những hạn chế của hình thức trang trí cũ. Mỹ thuật những đoàn cải lương thành phố, lộng lẫy, hình thức. Những đoàn các tỉnh có phần hiện thực, tả thực ít cảnh trung tính, đây là sự khác biệt trang trí mỹ thuật, phục trang cải lương đồng bằng Nam Bắc. Mỹ thuật các đoàn dưới đồng bằng, sân khấu bình dị, hiện thực. Phục trang bình dị như cuộc sống vốn có, sân khấu chân thực, ca diễn có giới hạn, ít khoa trương hình thức.

Mỹ thuật cải lương những năm đầu, còn hạn chế,nhưng nhiều đoàn có những tiến bộ tiếp cận mỹ thuật sân khấu hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Các đoàn cải lương Nam tại hội diễn sân khấu 1985.

Sân khấu hội diễn năm 1980, nhiều vở diễn sân khấu ngợi ca, đến năm 1985, hoà cùng sân khấu cả nước, các đoàn tham diễn những vở đề tài cuộc sống mới phản ánh hiện thực xã hội. Mỗi vở diễn phản ánh các sự việc đang diễn ra từng ngày ở dưới đồng bằng trên thành phố, những con người đi trước đang mắc nạn, trả giá bởi cơ chế, quan liêu chậm tiến.

Đoàn Cải lương Long An vở Đất và hoa – Minh Khoa, Đoàn Cải lương Sông Hậu II vở Trong cơn giông – Xuân Phong, Dương Linh, Đoàn Văn công thành phố Hồ Chí Minh vở Dốc sương mù – Lê Duy Hạnh, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang vở Tình yêu và lời đáp – Nguyễn Trường Thiên Lý, Đoàn Cải lương Đồng Nai vở Trên mảnh đất anh nằm – Huỳnh Minh Nhị, Đoàn Cải lương Cửu Long vở Ký hoạ người đồng bằng – Lê Duy Hạnh, Đoàn Cải lương An Giang vở Pháo hiệu màu xanh – Hoàng Anh Chi, Đoàn Cải lương Tây Ninh vở Người trong cõi nhớ – Lưu Quang Vũ, Đoàn Cải lương Đồng Tháp vở Người giữ mộ – Phi Hùng, Đoàn Cải lương tuồng cổ Minh Tơ vở Câu thơ yên ngựa – Hoàng Yến, Đoàn Cải lương Hương Tràm (Minh Hải) vở Trước bình minh – Anh Đạo, Hữu Nghĩa, Dạ Thảo, Đoàn Cải lương Bến Tre vở Trên mảnh đất quê hương – Lê Huỳnh, Huỳnh Thị Đằng, Ngô Mạn, Đoàn Cải lương Sông Hậu I vở Quà tặng tình yêu - Đoàn Bá, Đoàn Cải lương quân khu IX vở Hai dòng nước - Ngô Hồng Khanh.

Hội diễn cải lương năm 1980, cải lương Nam có 13 đoàn tham diễn, đến hội diễn năm 1985, 14 đoàn tham diễn, hơn đợt trước một đoàn, nhưng không có đoàn cải lương tư nhân tham gia. Từ sau hội diễn này đến hội diễn 2000, chỉ có hai đoàn cải lương tư nhân tham diễn, nguyên nhân do các đoàn lo doanh thu, phải là những đoàn mạnh mới đủ lực tham diễn, mặt khác các đoàn tư nhân ngại tham diễn không được gì lại bị phê phán mất uy tín. Ngoài ra còn những tiêu cực trong hội diễn, ngay từ hội diễn 1980, các đoàn đã lo phong bì cho các uỷ viên giám khảo, đến các hội diễn sau tình trạng ấy càng nặng nề hơn. Có những uỷ viên đưa tiền nhiều cho điểm cao, tiền ít trả lại cho là mình bị coi thường. Có giám khảo nghiêm như Hồ Ngọc (7) không nhận phong bì lại lên tiếng phê phán, liền bị bọn đàn em đến hẹn nói là: “đi nhậu với ông Đình Quang” may mà ông chưa ra khỏi cổng bảo vệ, bị bọn chúng kéo đi, nhưng ông giằng lại, vô tình đã thoát nạn. Tại hội diễn sân khấu năm 2005, một uỷ viên giám khảo hỏi tác giả, nhưng có ý tâm sự: bây giờ con mẹ ấy nó đưa 5.000.000đ cậu bảo nên xử lý thế nào? Tác giả nói: anh nhận và thông

báo cho mấy người có phần trong đó biết, còn mình vứ cho điểm vô tư, đến sau buổi diễn trả lại cho cô ấy. Kết quả mấy ông này không nhận tiền, nhưng vẫn phải nâng điểm cho vở diễn của Nhà hát vì tính chất mặt trận không thể thẳng băng được. Qua đây mới thấy hầu hết các cuộc thi không bao giờ là công bằng và chính xác, hiện nay những cuộc thi Thần tượng âm nhạc, Sao mai điểm hẹn... Chỉ những cuộc nhắn tin bình chọn cho ca sĩ, Nhà đài đã thu ba tỷ đồng, còn các ca sĩ muốn trúng giải, họ phải tung hai lần tiền, gửi tiền cho các fan nhắn tin, phong bì cho ban giám khảo. Chuyện giải Sao mai điểm hẹn lần thứ hai năm 2005, Hồng Nhung bỏ 9.000$ để vào giải, gạt Cao Thái Sơn ra, ngoài ra còn cặp với ông phó ban tổ chức, nên bị người tình đánh cho ra thai... Những chuyện chạy tiền trong hầu hết

...........................................................................................................................

(7) Chuyện xảy ra ở thành phố Cần Thơ

các cuộc thi đã quá rõ, nên ai được giải, ai không được là chuyện bình thường. Những cuộc thi sáng tác nhạc, Bài hát Việt... tất cả không tránh khỏi những luật bất thành văn. Đây là những sự kiện hiện thực lịch sử nghệ thuật thời nay không thể bỏ qua, xin trở lại hội diễn năm 1985, các đoàn cải lương Nam tham diễn 100% những vở đề tài cuộc sống mới, đây là nét đặc biệt của hội diễn. Những vở diễn phản ánh những bức xúc xã hội như tố cáo, phơi bày sự thật để mọi người nhận biết những lỗi lầm, oan khuất của cán bộ, nhân dân trước thời kỳ đổi mới. Nội dung những vở tham dự hội diễn, một là phản ánh những điểm nóng về phương thức làm ăn mới của lớp người đi trước, bị cơ chế trói buộc chặn đường tiến, hai là thân phận con người sau cuộc chiến họ sống trong nghèo khổ vì những bản thành tích, chiến công, vì lối sống không hoà nhịp vào cuộc sống mới, ba là những người “tiên phong”, họ chạy theo danh vị, tiền tài đánh mất tất cả để đổi lấy lợi ích trước mắt. Những vở diễn của sân khấu hội diễn, cảnh tỉnh mọi người, dự báo về vận mệnh con người, đất nước... Sân khấu thực sự có ích với khán giả và xã hội.

Sân khấu hội diễn 1985, là bước ngoặt lịch sử mở đầu đổi mới sân khấu, theo phương thức phản ánh hiện thực mới nối tiếp những cuộc hội diễn sau là sân khấu cải lương của nhân dân.

2.1 Nghệ thuật diễn.

Sân khấu cải lương Nam đến hội diễn lần thứ hai là bước ngoặt lịch sử đổi mới phương thức phản ánh hiện thực, phương pháp biên kịch cải lương của lớp tác giả mới cũ. Số tác giả cũ của Sài Gòn, số tác giả chiến khu và những tác giả ngoài Bắc là những sáng tác mới.

Sự đổi mới nội dung sân khấu dẫn đến đổi mới nghệ thuật diễn của các diễn viên cải lương ngôi sao, cải lương Nam lộ rõ hai khuynh hướng phong cách, những đoàn cải lương thành phố, nghệ thuật diễn tinh tế, hành động nhanh, ca kỹ thuật ngọt mùi. Những đoàn cải lương các tỉnh diễn hồn nhiên giản dị, ca diễn chậm rãi, kể chuyện tự nhiên. Những vở diễn của các đoàn cải lương đồng bằng Nam Bộ thể hiện rõ sân khấu kể chuyện, trong những lớp diễn thường có chén rượu, câu chuyện đời cứ tự nhiên ngấm vào công chúng. Hành động diễn không hoa mỹ, tự nhiên nói sao điệu bộ minh hoạ như hiện thực cuộc sống. Nghệ thuật diễn sân khấu hội diễn đổi mới diễn chân thực, các diễn viên ca diễn vừa độ sát tâm trạng nhân vật, đây là bước tiến đầu tiên của cải lương Nam. Tiến bộ về vở diễn đề tài cuộc sống con người mới, nghệ thuật diễn ngôn ngữ hành động mới, ca diễn mang nội dung hiện thực tâm lý tình cảm nhân vật.

Nghệ thuật diễn trên sân khấu hội diễn là hình mẫu nghệ thuật, ngôn ngữ hành động, sự hoàn chỉnh nghệ thuật đạo diễn từ các màn lớp đến tổng thể vở diễn. Các nhân vật có chuỗi hành động hợp lôgíc từ đầu đến kết thúc số phận qua những việc làm của nhân vật. Mỗi vở tổ chức hành động diễn có nhịp điệu tiết tấu toàn vở, tạo cao trào kỹ thuật ca diễn, đây là sự đổi mới nghệ thuật các đoàn cải lương Nam sau hoà bình thốngnhất đất nước.

2.2 Âm nhạc, mỹ thuật.

a. Âm nhạc

Âm nhạc cải lương những vở hội diễn xuất hiện lớp nhạc sĩ mới và cũ của Miền Nam cùng hoà nhập vào các vở cải lương, nâng cao kỹ thuật hoà tấu dàn nhạc, chấm dứt chơi nhạc hò xự sang.

Những vở diễn mới sáng tác nhạc mới như Quang Hải, Y Vân, Lưu Nhất Vũ, Thanh Tùng... âm nhạc đậm chất cải lương như Dốc sương mù, Tình yêu lời đáp, Ký hoạ người đồng bằng... Những vở cải lương đề tài cuộc sống mới các nhạc sĩ đưa vào chất dân ca sông nước Hậu Giang, những điệu lý kết hợp với bài Vọng cổ, điệu Oán, diễn tả tâm trạng, tình cảm nhân vật, chất âm nhạc bi hùng. Âm nhạc cải lương có những mảng đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, có những nét nhạc giằng xé bứt phá như cảnh trong vở Ký hoạ người đồng bằng. Một số vở có những ca khúc chủ đạo diễn tả không khí vở diễn, tâm trạng nhân vật hát đi hát lại là điểm nhấn về nhạc hát. Hoặc những đoạn nhạc chuyển cảnh lặp đi lặp lại, điểm nhấn báo hiệu chuyển cảnh... Các nhạc sĩ như có hướng mới viết cải lương:

Nhạc diễn tả nội tâm
Nhạc báo hiệu
Nhạc mở màn
Nhạc cao trào - kết thúc

Cấu trúc trọn vẹn tác phẩm âm nhạc trong một kịch bản cải lương, đây là phát hiện mới của những nhạc sĩ sáng tác ca nhạc cải lương. Âm nhạc sân khấu cải lương đổi mới, phương thức sáng tác nhạc, hoà tấu dàn nhạc, kỹ thuật ca... Các diễn viên ca diễn ngọt mùi, chân thật bình dị, đây là nét đẹp của ca nhạc hội diễn. Tuy nhiên, không loại trừ một số diễn viên ca chạy chữ bản Vọng cổ nhịp 64, ca hình thức kỹ thuật, thiếu nội dung, nhưng những ưu điểm của ca nhạc là đổi mới nghệ thuật âm nhạc.

b.Phục trang.

Mỹ thuật phục trang ngoài sân bãi doanh thu tự do, chẳng biết thuộc khuynh hướng nào, nhưng trên sân khấu hội diễn là đổi mới.

Đổi mới từ các họa sĩ Lưu Công Nhân, Phan Phan, Lê Định, Phùng Huy Bính, Bùi Huy Hiếu... Hội diễn 1985, các hoạ sĩ chạy theo mốt mới vào cải lương thường cấu trúc mô hình, trang trí mô hình tạo mảng khối, phá vỡ hình thức trang trí tả thực cảnh trí cầu kỳ có tính truyền thống cải lương từ xưa đến năm 1980. Hình thức trang trí hình khối có vẻ kịch nói chưa mềm với cải lương, nhưng những vở cải lương đương đại chấp nhận được. Những kiểu trang trí mảng khối đổi mới bộ mặt sân khấu cải lương, hình thức rang trí với nghệ thuật diễn tạo không khí sân khấu hiện đại. Hình thức trang trí này thường là trung tính gợi tả, hình như các đạo diễn ngại nói đến cái hiện thực cụ thể nên buộc các hoạ sĩ tạo cảnh trí không cụ thể, chỉ gợi tả từ phục trang đến nghệ thuật ca diễn, đặc biệt ngôn ngữ nhân vật... Qua đó, người xem tự nhận biết câu chuyện ấy xảy ra ở đâu vào bao giờ. Tuy nhiên, chỉ là dự đoán chung chung, không thể khẳng định chính xác được, đây là nói về những vở cải lương đương đại. Còn những vở cải lương cổ trang trí trung tính, người xem có thể giải mã ở thời nào, nhưng cũng chỉ là tương đối, bởi ngay ngôn ngữ nhân vật thời thượng cổ mà cứ xưng hô là anh em, ông tôi... quả không thể khẳng định được. Những năm 80, sân khấu trung tính trang trí mảng khối trung tính, trung tính từ mỹ thuật đến ngôn ngữ văn học kịch, nhiều người không đồng tình, nhưng phải chấp nhận có một sân khấu như thế.Mỹ thuật cải lương thiếu đi cái đẹp tả thực cụ thể sông núi, trời mây, cây cỏ thơ mộng, có vẽ cây là cây mảng khối, cây đứng thẳng có vài cành to không lá,cụt cành... Có vở tả một dãy vườn cây, sông nước đứng trơ ra mấy cái lá tượng trưng, hết vẻ thi vị, nhưng nó đem đến ấn tượng mới lạ. Sân khấu cải lương tìm đến vẻ đẹp tạo hình cấu trúc trang trí hình khối, bên cạnh đó có những hoạ sĩ không từ bỏ lối cũ, trang trí tả thực chi tiết, tạo vẻ đẹp thơ mộng, hoành tráng. Đây là sự tương phản giữa hai hình thức trang trí sân khấu cải lương, không loại trừ nhau đem đến những cái đẹp riêng cho sân khấu.

Mỹ thuật sân khấu cải lương đi cùng vở diễn đổi mới sân khấu mang đặc tính dân tộc hiện đại, phản ánh thẩm mỹ sân khấu muốn bứt phá như cuộc sống trong các

vở diễn.

Sân khấu cải lương 1968 – 1985, từng bước đổi mới nghệ thuật, giai đoạn đầu giao lưu, hoà nhập cải lương hai miền Nam - Bắc, có nhiều hình thức phát triển trong đời sống khán giả được mọi người hâm mộ.

Sân khấu cải lương có hai hình thức biểu diễn, biểu diễn doanh thu ngoài sân bãi phần lớn các đoàn tư nhân Sài Gòn cũ, cả những đoàn Nhà nước diễn chạy theo thị hiếu công chúng vì mục đích doanh thu. Nhiều hình thức tổ chức biểu diễn cấu trúc chương trình nội dung vở diễn theo yêu cầu nhằm đạt hiệu quả doanh thu, phá bỏ những mực thước thẩm mỹ nghệ thuật cải lương. Những vở diễn trên sân khấu hội diễn nhằm định hướng nghệ thuật, nhưng đã xa rời công chúng vì sau hoà bình công chúng đòi hỏi đổi mới nghệ thuật, sân khấu cải lương chưa đáp ứng kịp. Đến hội diễn 1985, sân khấu đổi mới, chuyển từ sân khấu ngợi ca của nền sân khấu hiện thực xã hội chủ nghĩa sang sân khấu phê phán, phản ánh hiện thực mới. Đây là sự chuyển đổi văn hoá, nghệ thuật, từ văn nghệ thời chiến sang thời bình, cuộc sống mới đang vận động phá vỡ nhiều giá trị mực thước cũ, sân khấu cải lương hoà nhập theo dòng chảy mới. Tuy vậy, nghệ thuật diễn đang tồn tại hai hình thức, hình thức doanh thu ngoài sân bãi sát thực tiễn công chúng, nhưng nhiều người phê phán cho là nghệ thuật rẻ tiền, mất phương hướng, nghệ thuật xuống cấp... Cần nhìn nhận lại nghệ thuật, không thể lấy mực thước thẩm mỹ kinh viện cũ để nhận xét những hình thức sân khấu mới. Đây là nhận thức luận chưa theo kịp hiện thực sân khấu, vì trước đây ta quen cảm thụ một dòng nghệ thuật ngợi ca, khi phát triển nền kinh tế xã hội mới, nghệ thuật có nhiều dòng, phục vụ nhiều đối tượng ở những công việc, trình độ khác nhau bị coi là mất phương hướng, phản thẩm mỹ... Sự phát triển sân khấu cải lương đến từng đối tượng công chúng, có những xô bồ, quá khích... nhưng là sân khấu vì công chúng. Nghệ thuật cải lương tiếp cận công chúng xuất hiện sân khấu phê phán, sân khấu giải trí. Quá trình phát triển nghệ thuật cải lương có những hình thức sân khấu mới:

Sân khấu ngợi ca
Sân khấu giải trí (Ngoài sân bãi)
Sân khấu phê phán.

Đây là đổi mới sân khấu cải lương, xuất phát từ nền kinh tế xã hội, có lớp công chúng mới đã ra đời các hình thức sân khấu của công chúng. Nền văn hoá nghệ thuật mới, đáp ứng mọi đối tượng công chúng, phát huy sáng tạo nghệ thuật, từng bước hé mở khuynh hướng tác giả với các loại hình nghệ thuật. Sân khấu cải lương từ năm 1975 đến 1990 giai đoạn hoàng kim nghệ thuật, là sự phát triển phong phú các loại hình nghệ thuật mới, cải lương ca nhạc nhẹ chinh phụ công chúng cả nước và phát triển ra thế giới, đó là điều trước đây không nghệ sĩ nào dám mơ đến. Sân khấu cải lương 1985, mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước, đổi mới nghệ thuật vì công chúng, phản ánh hiện thực xã hội.





Chương VI



Sân khấu cải lương giai đoạn 1985 – 2007



I.Nghệ thuật cải lương những năm cuối thế kỷ XX.

1.Sân khấu cải lương giai đoạn 1985 – 2000.

Những năm cuối thế kỷ XX, sự nghiệp đổi mới đất nước mở cửa giao lưu với các nền kinh tế, xã hội phương Tây. Tình hình đổi mới diễn ra từ nhiều năm trước, đến năm 1986 chính thức được công nhận từ NQTV VI, mở ra kỷ nguyên mới về các mặt hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, nghệ thuật. Mọi hoạt động văn hoá nghệ thuật có phần cởi mở dân chủ, những trào lưu ca nhạc nhẹ, sân khấu, nghệ thuật phương Tây vào nước ta. Ca nhạc nhẹ, cải lương phát triển nhiều hình thức tiếp cận công chúng đổi mới nội dung những bản nhạc, vở diễn phản ánh hiện thực mới. Nghệ thuật phản ánh cái tôi riêng tư, những góc tối của con người lên tiếng đòi công nhận. Những vở diễn sân khấu phản ánh cái tôi vùng vẫy khắp nơi đòi hưởng lạc quyền lợi... chà đạp lấn át lên tất cả để dành lấy những thoả mãn cá nhân. Ca nhạc chuyển từ ngợi ca cái ta sang cái tôi, nhân xưng anh em có trong những bài nhạc trẻ xoáy vào đề tài tình yêu: tình yêu tan vỡ, dỗi hờn, si cuồng, tưởng vọng, vu vơ... là sự thành công nhất của trào lưu ca nhạc văn hoá đại chúng. Nhiều ban nhạc tư nhân ra đời, sau đó là hàng loạt các đoàn cải lương tư nhân xuất hiện dưới nhiều hình thức biểu diễn doanh thu.

Những đoàn cải lương tư nhân hoạt động trên mọi miền đất nước, ở Nam Bộ nhiều huyện xã có từ 4 đến 8 đoàn cải lương, một số huyện như Cai Lậy, Ô Mô, Cái Bè... tổ chức hội diễn cải lương có từ 8 đến 13 đoàn dự thi. Nhiều đoàn cải lương mọc lên khắp các tỉnh Miền Trung, Bà rịa – Vũng Tầu, Tây Nguyên. Sân khấu cải lương Miền Trung ít có điều kiện phát triển nhưng vào những năm 90, Miền Trung có nhiều đoàn cải lương tên tuổi tham dự Hội diễn sân khấu Toàn Quốc, ra Miền Bắc diễn doanh thu... Số đoàn cải lương tư nhân vào giai đoạn cao trào, Miền Bắc có 14 đoàn, Miền Trung có 18 đoàn, Miền Nam 120 đoàn. Tuy nhiên những đoàn cải lương tư nhân không tồn tại lâu, chất lượng nghệ thuật và tổ chức hoạt động còn nhiều khiếm khuyết, phát triển như các nhà hàng thời trang. Nhưng nhiều đoàn có những vở diễn thành công, tổ chức đội ngũ chuyên nghiệp, tham dự hội diễn sân khấu chuyên nghiệp. Tính tổng số các đoàn cải lương cả nước có 364 đoàn, số diễn viên 5000 người, đây là thời kỳ hoàng kim sân khấu cải lương, nhìn vào số lượng, hình thức bên ngoài được công chúng nuôi dưỡng bằng biểu diễn doanh thu là thành công lớn. Sự phát triền nhiều đoàn cải lương là giai đoạn phức tạp nhất về nội dung nghệ thuật, dù không có sai phạm về đường lối văn nghệ, nhưng những hình thức diễn phản thẩm mỹ không ít. Nghệ thuật diễn, mỹ thuật, âm nhạc, phục trang, sân khấu... là bước lùi nghệ thuật. Đó là cuộc cạnh tranh đoàn nào giữ được phẩm chất nghệ thuật sẽ tồn tại, những đoàn yếu kém tan rã dẫn đến thoái trào sân khấu cải lương. Sân khấu cải lương trở về đúng với bản thân của công chúng sau năm 1995 cả nước có 52 đoàn cải lương Nhà nước, 34 đoàn cải lương tư nhân. Số lượng các đoàn cải lương giảm nhanh vì chất lượng nghệ thuật kém, các đoàn ra đời nhiều, tan rã nhanh. Sân khấu cải lương vào giai đoạn hưng thịnh nhiều hình thức diễn cải lương đến công chúng:

Cải lương băng tiếng truyền thanh 1972
Cải lương băng tiếng caset phổ biến 1975
Cải lương truyền hình phổ biến 1975
Phim cải lương năm 1985
Cải lương video năm 1987
Sân khấu cải lương

Điểm qua sáu hình thức biểu diễn cải lương ra đời, phát triển mạnh vào thời hoàng kim thì sự cạnh tranh giữa các hình thức cải lương đã loại trừ lẫn nhau dẫn đến năm 1993, khủng hoảng nghệ thuật. Nạn khủng hoảng nghệ thuật tác động đến các hình loại, ca nhạc trữ tình, nhạc đân tộc, sân khấu tuồng, chèo, cải lương diễn không đủ doanh thu, nhiều đoàn tư nhân tan rã, nhiều diễn viên bỏ nghề mở quán, sửa xe máy, bán hàng sắt... xa rời nghệ thuật. Sân khấu cải lương từng có thời đứng đầu cạnh tranh sân bãi, đánh bại ca nhạc nhẹ, sau năm 1987 đến năm 1993 ca nhạc nhẹ đã đánh baị sân diễn doanh thu sân bãi cải lương. Năm 1993, sàn diễn sân khấu cải lương bị hai đòn trí mạng ca nhạc nhẹ và cải lương video cạnh tranh mạnh, sàn diễn sân bãi thất thu, nhiều đoàn tan rã. Sự tan rã các đoàn cải lương trên sân bãi là bước chắt lọc chất lượng nghệ thuật, sàn diễn sân khấu cải lương chỉ còn lại những đoàn mạnh có chất lượng nghệ thuật mới tồn tại trước công chúng. Sau đổi mới năm 1987, Nhà nước bỏ bao cấp, các đoàn tự hoạch toán thu chi, Nhà nước chỉ bao cấp 4 mục chi: Mua trang thiết bị sân khấu, sửa chữa sàn tập, nhà xưởng, dựng tiết mục mới, lương và các khoản chi khác phải tự túc. Nhà nước khoán mức doanh thu, nếu vượt chỉ tiêu sẽ tính 80% bồi dưỡng diễn viên, 20% chi quỹ phúc lợi (1). Chính sách khoán doanh thu mới mở ra được sáu năm 1987 – 1993 có dấu hiệu phá sản, Nhà nước liền bao cấp trở lại 50%, đến năm 1997 bao cấp 100% cho các đoàn sân khấu và cải lương. Nhà nước chuyển cơ chế khoán mới, mỗi đoàn cải lương hằng năm biểu diễn 150 buổi, 100 buổi doanh thu, 50 hoặc 60 buổi diễn phục vụ chính trị, đồng bào vùng sâu vùng xa... không doanh thu. Tình trạng khoán này kéo dài đến năm 2000, sau năm 2000 tuỳ mỗi địa phương tự giao khoán cho các đoàn mức khoán, hình thức khoán khác nhau. Các tỉnh phía Bắc, các Nhà hát: Cải lương Hà Nội – TW, có mức khoàn từ 150 đến 160 buổi cả doanh thu và phục vụ 50 buổi. Sau năm 2000, từ năm 2003 Nhà nước khoán 200 buổi/năm, doanh thu 150 buổi. Nhà hát Cải lương TW 500.000.000đ/năm. Còn các tỉnh mức khoán 150 – 160 buổi/năm, doanh thu 100 buổi, thường các đoàn cấp tỉnh thu 200.000.000đ/năm. Các tỉnh phía Nam có nhiều hình thức khoán, lúc đầu khoán buổi diễn như ngoài Bắc, từ 2003, khoán số tiền doanh thu, mức trung bình 300 – 500 triệu đồng năm, cá biệt như đoàn xiếc thu 3 tỷ đồng/ năm doanh thu. Sự thay đổi chính sách quản lý các đoàn cải lương dẫn đến tinh nghệ thuật, dù tự do ra đời, tự do tan rã thì số lượng các đoàn đã suy giảm đến mức tột cùng do công chúng định đoạt các đoàn cải lương hoạt động tồn tại. Đây là giai đoạn phát triển nghệ thuật trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động văn hoá, nghệ thuật theo quy chuẩn hàng hoá, trong cơ chế vận hành của tổ chức kinh tế xã hội mới. Quy chế của nền kinh tế hàng hoá dưới hình thức tổ chức kinh tế, đặt mối quan hệ người tiêu dùng với nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để tổ chức sản xuất: hàng hoá - giá cả - nhu cầu – khách hàng. Từ mối quan hệ nhu cầu, các đoàn cải lương chỉ tồn tại là những đoàn đững vững trong cơ chế thị trường, đó là những đoàn cải lương tư nhân mạnh.

Sự hoạt động cải lương trước những biến đổi của nền kinh tế xã hội, mở đầu sự nghiệp đổi mới đất nước, là giai đoạn đầu phát triển các đoàn cải lương.



1.1.Các đoàn cải lương Nam



Trong nền kinh tế thị trường, nghệ thuật cải lương Nam nhanh chóng bám sát công chúng, thích nghi môi trường xã hội, dưới đồng bằng Nam Bộ, có nhiều đoàn cải

.....................................................................................................................

(1)Theo các đoàn trưởng cải lương cho biết

lương Nhà nước, tư nhân cùng tồn tại. Các đoàn Nhà nước bền vững hơn vì được bao cấp toàn diện, thường là những đoàn có thành tích biểu diễn phục vụ, có chất lượng nghệ thuật, ít nhất là được công chúng trong tỉnh và các tỉnh bạn yêu thích.

Đoàn cải lương Sài Gòn I, ra đời tháng 9 – 1975, những nghệ sĩ đầu tiên NSND Phùng há (phong tặng 1983), Năm Châu, Ba Vân... tiếp đến các diễn viên út Trà Ôn, Thành Được, út Bạch lan, Phương Liên, Mỹ Châu, Thanh Thanh Hoa, Ngọc Giầu, Tô Kim Hồng... tiếp đến Thanh Kim Huệ, Thanh Điền, Châu Giang, Trúc Phượng, Bảo Linh, Dương Thanh, Kim Tử Long, Phượng Loan. Đoàn có những vở diễn thành công: Sân khấu về khuya, Đời cô Lựu, Người ven đô, Đêm trắng... của các tác giả: Năm Châu, Trần Hữu Trang, Minh Khoa, Lưu Quang Hà và một số vở của Thanh Kim Huệ, Thanh Điền như: Lỡ yêu rồi, Quỷ kiến sầu, Em ơi đừng khóc nữa... được công chúng yêu thích.

Nhà hát cải lương Tràn Hữu Trang, thành lập tháng 6 – 1976, tiền thân từ 3 đoàn cải lương: Đoàn T4, Đoàn Cải lương Nam Bộ, Đoàn Văn công Sài Gòn – Gia Định. Đoàn Văn công Sài Gòn – Gia Định đến năm 1975 đổi tên thành Đoàn Văn công thành phố Hồ Chí Minh, năm 1976 nhập vào Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang.

Dàn diễn viên đầu tiên của Nhà hát: Hoàng Giang, Ngọc Thạch, Hữu Phước, Tấn Đạt, Ngọc Giầu, Hoàng Long, Lê Thiện, Công Thành, Bạch Tuyết... tiếp theo Phương Quang, Lệ Thuỷ, Minh Vương, út Hiền, Thanh Sang, Ngọc Lan Thanh, Thanh Thanh Tâm, Kim Tử Long, Thoại Miêu, Quốc Hùng, Vũ Linh, Phương Hồng Thuỷ, Diệu Hiền, Ngọc Huyền, Thanh Vi, Phượng Hằng, Hữu Quốc, Châu Thanh, Phượng Loan, Tiến Dũng, Thoại Mỹ, Tấn Giao, Mỹ Hằng, Vũ Luân, Ngọc Tuyết... Nhà hát có đội ngũ diễn viên nổi tiếng, nhiều ngôi sao cải lương được công chúng cả nước biết tên, mỗi giai đoạn có nhiều vở diễn kinh điển cho ngành cải lương. Nhà hát có dàn kịch mục 70 vở diễn suất sắc, còn nhiều chương trình diễn xung kích của 4 đoàn, mỗi đoàn có ít nhất 60 lượt vở dựng lại, hoặc dựng mới. Số vở diễn chung của Nhà hát dựng mới và dựng lại gần 200 vở diễn, nhiều chương trình gây chấn động dư luận không đáp ứng nổi nhu cầu công chúng. Nhà hát có nhiều vở diễn nghệ thuật cao như Chim Việt cành Nam – Thể Hà Vân, Kiều Nguyệt Nga – Ngọc Cung, Dốc sương mù – Lê Duy Hạnh, Thái hậu Dương Vân Nga – Trúc Đường, Đêm phán xét – Thể Hà Vân, Cây sầu riêng trổ bông – Hoài Linh, Truyện cổ Bát Tràng – Hà Triều, Hoa phượng, Nàng Xê Đa – Lưu Quang Vũ, Đôi bờ – Lê Duy Hạnh... Sang những năm đầu thế kỷ, công chúng suy giảm, những Nhà hát từng bước xã hội hoá thành công.

Thế hệ diễn viên mới sát cánh cùng giám đốc Quốc Hùng dựng nhiều vở diễn, cấu trúc các chương trình thử nghiệm cải lương hấp dẫn công chúng doanh thu cao. Nhà hát có những giai đoạn khó khăn, gần mất vị trí trong công chúng, nhưng đã vượt qua lấy lại công chúng, luôn là Nhà hát cải lương hàng đầu Nam Bộ. Năm 2006, Nhà hát thử nghiệm dựng vở Cây tương tư 1 tỷ đồng, là chương trình cải lương có kinh phí lớn nhất trong các hình thức dựng vở từ xưa đến nay. Từ năm 2000 đến năm 2007, Nhà hát có hai đoàn, đoàn một 20 người, đoàn hai 25 người. Đoàn hai là đoàn trẻ thường đi diễn xa thành phố đến vùng sâu vùng xa, đảo Trường Sa, Phú Quốc, các tỉnh Nam Bộ. Nhiều diễn viên đi diễn vùng Đồng Tháp Mười, tiền bồi dưỡng thấp, mọi người đã hăng hái lên đường, các diễn viên còn trích lương xây dựng nhà tình thương, chăm sóc các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nhà hát có 6 NSND đa phần đã nghỉ hưu, hoặc chuyển đi nơi khác, còn nhiều nghệ sĩ ưu tú như Diệu Hiền, Hoàng Giang, Thanh Hải, Thanh Tâm, Quốc Hùng, Thoại Miêu... Các diễn viên đoạt giải thưởng Trần Hữu Trang: Tuấn Giao, Ngọc Tuyết, Hữu Quốc, Mỹ Hằng, Quỳnh Hương... Từ năm 1993 đến năm 2000, doanh thu thấp, nhiều đêm Nhà hát nghỉ diễn vì không có khán giả đảm bảo doanh thu. Nguyên nhân khi xã hội hoá sân khấu tại thành phố, thời gian đầu các bầu show và diễn viên nâng giá cát xê, làm cho nhiều đoàn đổ vỡ, thị trường sân khấu vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, tạo ra thị trường tự do cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến nghiệp dư hoá nghệ thuật cải lương. Sân khấu cải lương bị các ngôi sao kiểm soát quy định vở diễn, địa điểm, cát xê... Cuối cùng thước đo nghệ thuật và giá trị người nghệ sĩ – tính bằng cát xê. Giá trị nghệ thuật của các vở diễn – tính theo tên các diễn viên ngôi sao, qua đó hạ thấp thẩm mỹ cải lương, sa sút tình người nghệ sĩ. Thực trạng những năm xã hội hoá tự phát gây rối loạn thị trường nghệ thuật, sân khấu cải lương mất phương hướng, Nhà hát đã khắc phục:

Trẻ hoá bộ máy quản lý và diễn viên.
Làm chủ thị trường sân khấu, dựng vở diễn hướng tới công chúng, từng bước xoá bỏ tình trạng công chúng và diễn viên làm chủ thị trường cải lương.
Điều chỉnh công chúng qua những vở diễn sáng tạo nghệ thuật, nâng cao giá trị thẩm mỹ, hướng tới giá trị nghệ thuật cải lương dân tộc hiện đại.

Nhà hát Cải kương Trần Hữu Trang từng bước thoát khỏi sự phong toả, nhấn chìm của quá trình xã hội hoá nghệ thuật trong vòng quay cơ chế thị trường. Từ năm 2000 đến năm 2007, Nhà hát làm chủ công chúng, làm chủ thị trường, nhiều chương trình doanh thu 50 – 60 triệu đồng, có chương trình đạt 2000 triệu đồng. Nhà hát đã lấy lại vị trí nghệ thuật và uy tín trước công chúng những năm đầu thế kỷ mới.

Đoàn cải lương Sài Gòn II, thành lập ngày 19 – 8 – 1975, những diễn viên dầu tiên: Thanh Kim Huệ, Thanh Điền, Diệp Lang, Thanh Tuấn, Giang Châu, Lệ Thuỷ, Ngọc Bích, Thoại Miêu, Kiều Lan, Lam Chi, Mỹ Châu, Hồng Nga, Mai Lan... Đoàn có nhiều vở diễn thành công như Khách sạn hào hoa – Vũ Kim, Trần Hà, Tiếng hò sông Hậu - Điêu Huyền, ảnh lửa rừng khuya - Điêu Huyền, Nụ hôn chiều ly biệt – Thanh kim Huệ, Cây tương tư – Thanh kim Huệ... Đoàn Sài gòn II đến năm 2001 tan rã.

Đoàn Sài Gòn III thành lập ngày 15 – 8 – 1975, các diễn viên: Trường Sơn, Thuý Lan, Thanh Việt, Tài Lương, Trúc Phương, Linh Huệ, Ngân Tâm, Vương Ngọc... Những vở diễn giai đoạn đầu: Mái tóc người vợ trẻ – Trần Hà, Tiếng trống Mê Linh – Nguyến Đức Thuyết, Bên cầu dệt lụa – Thái Châu, Thái hậu Dương Vân Nga – Trúc Đường. Từ năm 1990 có các diễn viên: Văn Ngà, Ba Xây, Ngọc Nuôi, Bảo Quốc, Hùng Minh, Bích Sơn, Kiều Mai Lý, Thanh Sang, Kim Hương, Hoàng Giang... Đoàn Cải lương Sài Gòn III hoạt động đến năm 2000 tan rã.

Đoàn Hương mùa thu, hoạt động từ những giai đoạn trước đến năm 1975 thành lập lại, lớp diễn viên đầu tiên: Hiếu Liêm, Bảo Linh, Ngọc Hưng, Ngọc Hoa, Hoài Thanh... Đoàn có nhiều vở diễn truyền thống, dàn kịch mục 80 vở cải lương cổ và đương đại. Những vở cải lương giai đoạn gần nhất: Lửa phi trường – Ngọc Thu, Gánh cỏ sông Hàn – Ngọc Thụ, Con cò trắng – Thu An, Dưới đáy dòng sông (huy chương bạc năm 1995)... Đoàn Cải lương Hương mùa thu hoạt động đến năm 1998 tan rã.

Đoàn Cải lương 2 – 84, thành lập từ tháng 2 năm 1984. Đoàn tập hợp nhiều diễn viên ngôi sao đi diễn ở các nước Tây Âu, Phần Lan, Thuỵ Điển... nên lấy mốc thời gian tập hợp đoàn mang tên đoàn cải lương 2 – 84.

Đoàn có 20 diễn viên, nhiều diễn viên nổi tiềng như Diệp Lang, Thanh Nguyệt, Minh Vương, Lệ Thuỷ, Bạch Tuyết, út Bạch Lan, Thanh Tòng, Ngọc Giàu, Giang Châu, Nguyên Hạnh, Lương Tuấn, Nam Hùng, Châu Thanh, Tú Chinh, Thanh Tuấn, Phương Quang, Hồng Nga, Trọng Nhân... Đoàn diễn các vở Tô ánh Nguyệt – Trần Hữu Trang, Lôi Vũ – Tào Ngu, Đời cô Lựu, áo cưới trước cổng chùa – Kiên Giang, Pha lê và cát bụi – Trương Bỉnh Tòng...

Đây là đoàn cải lương tư nhân mới ra đời xã hội hoá tự phát, là đoàn cải lương mạnh nhất Nam Bộ, tập chung những ngôi sao ca diễn ngọt mùi, xinh đẹp, nhưng hoạt động đến năm 1992 tan rã hoàn toàn vì doanh thu thấp, vì cấp phép hoạt động chậm, mọi người phải ra đi. Sự ra đi của cải lương 2 – 84, có lỗi của các tổ chức Nhà nước coi nhẹ các hoạt động sân khấu tư nhân.

Đoàn Cải lương Trung Hiếu, tiền thân là Đoàn Cải lương Ngoại thương Sở thương nghiệp thành phố Hồ Chí Minh thành lập năm 1982, năm 1985 lên hoạt động chuyên nghiệp thuộc Sở Công an thành phố.

Nơi hoạt động của đoàn trụ sở 477 Võ Văn Tần, thuộc Quận III, thành phố Hồ Chí Minh.

Trước đây đoàn thường diễn vở cũ như áo cưới trước cổng chùa, Cung gieo sông hận... từ ngày chuyển sang Sở Công an, đoàn diễn những vở mới: Sóng gió cuộc đời của Viễn Hùng, Vụ án Mã Ngưu - Đăng Minh, Lệnh truy nã - Huỳnh Bá Thành, Tình không biên giới - Đăng Minh... Đây là những vở đề tài cuộc sống mới, nhiều vở nói về chiến công người chiến sĩ công an, đoàn từng dẫn quân ra Bắc diễn doanh thu cao. Những diễn viên của đoàn: Yến Nhung, Kim Hương, Thảo Sơn, Mai Sương, Thanh Long, Hoàng Ni, Đức Tài, Đăng Minh, Quốc Thắng, Hải Quang, Hiệp Thành, Châu Thanh, Lê Xệ (hài), Phượng Mai, Thu Thảo, Hoàng Anh, Minh Phụng, Mai Ly, Thoại Hằng, Vương ánh, Cẩm Tiên, Ngân Giang, Vương Cảnh, Minh Tiến, Phượng Mai...

Đoàn Cải lương Trung Hiếu là đoàn cải lương có nhiều vở diễn nghiêm chỉnh, được công chúng yêu thích, nhưng sau năm 90, đoàn thu nhập thấp nằm trong nạn khủng hoảng công chúng của sân khấu cải lương. Năm 1993, đoàn tan rã vì nhiều diễn viên ngôi sao bỏ đoàn, mỗi người đi kiếm tiền theo ý tưởng riêng, đoàn không còn khả năng biểu diễn.

Đoàn Cải lương Tuổi trẻ, Sở Thương nghiệp thành phố hồ Chí Minh, ra đời năm 1985, đoàn có hai lần ra Hà Nội biểu diễn, doanh thu mỗi tối 20 – 30 triệu đồng. Công chúng Hà Nội thường xem đông ở sân Hàng Đẫy, một số rạp ở Hà Nội, Nhà văn hoá Hà Đông, Nhà văn hoá Công đoàn Hà Nội...

Những diễn viên chính nổi tiếng của đoàn: Mai Thanh Phượng, Hoàng Thâu, Linh Tâm, Yến Chi... Những vở diễn: Dâng trọn tình yêu, Sao mai thành phố, Hạnh phúc đắng cay, Chiều đông gió lạnh về... Đoàn hoạt động nhiều năm từ Sài Gòn ra Miền Trung, xuống đồng bằng Nam Bộ, đến năm 1990 tan rã.

Sân khấu cải lương thành phố những năm 80, có 20 đoàn biểu diễn doanh thu, là những đoàn tư nhân, gọi là tập thể nhiều đoàn có nhiều diễn viên ngôi sao, hoặc suất sắc, hoạt động nhiều năm được công chúng hâm mộ. Đây là giai đoạn hoàng kim lịch sử phát triển sân khấu cải lương trên mọi miền đất nước, nhiều đoàn cải lương tư nhân ra đời, khi mất công chúng các đoàn tự tan rã.

Một số đoàn cải lương tư nhân đồng bằng Nam Bộ ra đời giai đoạn xã hội hoá tự phát, biểu diễn doanh thu hiệu quả phục vụ được công chúng yêu thích.

Đoàn Bông dừa trắng, tỉnh Bến Tre thành lập năm 1983 từ hai ban hát tư nhân Hương Phúc, Hướng Dương, có nhiều diễn viên quen biết: Minh Phụng, Kiều Tiên, Hồ Bảy, Phương Linh, Dạ Thảo, Thảo Sương, Thanh Xuân, Kim Chi, Thanh Vũ, Thu Thuỷ, Vương Hiền, Tuyết Nga. Một số vở nổi như Bông dừa đỏ, Tiếng hò trên sông Hạ, Trên cánh đồng quê hương – Huỳnh Thị Đằng, Cánh buồm trắng... Đoàn hoạt động đến năm 1993 tan rã, số diễn viên giỏi nhập vào Đoàn Cải lương Bến Tre.

Đoàn Cải lương Hàm Luông, có các diễn viên khá nổi: Linh Kiều, Khánh Châu, Hoài Vương, Mỹ Vân, Mộng Lâm, Kim Nguyệt... Đoàn diễn nhiều vở doanh thu cao, có vở ánh đuốc đêm xuân tham dự hội diễn 1985, huy chương bạc. Đoàn Cải lương Hàm Luông tan rã năm 1985, nhưng có dàn kịch mục 46 vở, nhiều vở đề tài cuộc sống mới được công chúng yêu thích như Người đẹp suối mây – Ngô Mạn, Cô gái đội trầm hương – Ngô Mạn, Sóng nước hồn trinh – Ngọc Bé, ánh đuốc đêm xuân – Lê Huỳnh, Sơn Hậu thành – Ngọc ấn, Bửu Trì, Thanh trụ rừng gươm – Bửu Tài...

Tỉnh Bến Tre có 4 đoàn cải lương lớn, ngoài ra các huyện còn có các đoàn tự nhân Đoàn Mỏ Càng, Chợ Lách, Hoa Dừa, Châu Thành... Nhiều đoàn doanh thu cao, biểu diễn sang nhiều tỉnh đồng bằng Nam Bộ, từ 3 đến 5 năm tan rã, có diễn viên vào đoàn Nhà nước, người bỏ nghề mở quán.

Đoàn Cải lương Bông hồng vàng – bầu chủ Linh Tâm, thành lập năm 1987, tại Vĩnh Long, diễn viên có: Bảo Chung, Vũ Linh Tâm, Phương Thuỷ, Hương Giang, Vũ Hằng, ái Thanh... Đoàn có dàn kịch mục 32 vở, hoạt động đến năm 1995 tan rã, chỉ có một số vở để lại trong công chúng như Ma nữ đa tình, Chung tình, Mù thu Bạch Mã...

Đoàn Cải lương Bông hồng vàng, ít diễn viên ngôi sao, kịch bản chưa hấp dẫn nên sớm tan rã.

Đoàn Linh Thanh, bầu chủ Chiều Linh. Đoàn thành lập năm 1990, diễn viên có:Chiêu Linh, Thanh Loan, Kiều Trang, Vũ nam, Thanh Thanh, Thái Linh... Đoàn diễn các vở: Vụ án Mã ngưu, Tuổi thơ lưu lạc, Hành khất đại hiệp, Bạch nhạn thần chưởng... Những vở diễn của đoàn phần lớn là vở cải lương kiếm hiệp, do phương hướng không rõ, ít diễn viên nổi, đoàn tan rã năm 1997.

Đoàn Cải lương Rạng đông, ra đời năm 1992, tại tỉnh Trà Vinh. Bầu chủ gia đình Năm Linh, diễn viên: Hồng Trẻ, Linh Hằng, Tài Loan, Hiếu Luận, Linh Vương, Thuỳ Trang... Những diễn viên không nổi lắm, nên mỗi lần diễn mời thêm các diễn viên ngôi sao thành phố như Vũ Linh, Tú Sương... doanh thu cao. Đoàn cố bám trụ đến năm 2000, ví công chúng suy giảm đến mức không đủ chi, Đoàn Rạng đông tan rã.

Đoàn Hương Miền Nam, đầu tiên là đoàn Tiếng hát Vũ Linh, do Vũ Linh bầu chủ, diễn viên có Tú Sương, Dạ Thảo, Mai Lý... sau đổi thành Hương Miền nam, ra đời năm 1992 đến năm 1994 tan rã tại Cần Thơ. Đoàn Hồng Nhung ra đời năm 1992 tại Cần Thơ, diễn viên có Thanh Nam, Chế Tâm, Tuấn Sơn, Mỹ Hạnh, Lệ Hương, Diễm Hoàng... Đoàn diễn các vở: Tuyệt tình ca, Hoả sơn thần, Sát thủ song đao... Tuy ít diễn viên nổi, nhưng dựng vở kỹ, biết doanh thu, Đoàn tồn tại đễn năm 2007 còn lưu diễn ở đồng bằng Nam Bộ.

Đoàn Cải lương Tây Đô, là đoàn Nhà nước từ chiến khu trở về tỉnh Cần Thơ thuộc Sở Văn hoá Thông tin quản lý. Đoàn ra đời năm 1965, giai đoạn chiến tranh vừa biểu diễn làm thông tin tuyên truyền thuộc Ban tuyên huấn tỉnh. Từ năm 1992, đoàn có lớp diễn viên mới: Văn Nam, Vương Vũ, Thảo Vân, Phượng Loan, Ngân Vương, Mỹ Dung, Linh Thảo, Vương Châu, Diệp Tĩnh... Đoàn có nhiều vở diễn tham dự Hội diễn sân khấu, những vở đề tài cuộc sống mới như Loài hoa không tên, Đứa bé không tên, Bản tình ca đêm chơi vơi, Gió ngược chiều, Huyền thoại một tình yêu, Mùa xuân... Phần lớn là kịch bản Ngô Hoàng Khanh và Liên Tâm. Đoàn Cải lương Chuông vàng là đoàn tư nhân, thành lập năm 1967, từ căn cứ giải phóng, sau về tỉnh Sóc Trăng hoạt động biểu diễn khá lâu. Những diễn viên giai đoạn đầu: Vương Châu, Quốc Phương, Như Hạnh, Hoàng Đông... Những vở diễn của đoàn: Gươm Thiêng, Thời loạn, Hai mươi năm một chuyện tình, Nỗi đau năm tháng... Đoàn Cải lương Chuông vàng hiện còn hoạt động...

Sân khấu cải lương đồng bằng Nam Bộ phát triển rất mạnh, vì phường xã có quyền cấp giấy phép hoạt động, nên mỗi tỉnh có 15 – 20 đoàn. Trước tình hình ấy, năm 1993 Bộ Văn hoá có lệnh bãi bỏ các phường xã cấp phép hoạt động biểu diễn cho các đoàn cải lương đồng bằng Nam Bộ. Sân khấu cải lương dần đi vào thế ổn định các đoàn và hoạt động biểu diễn.



1.2.Sân khấu cải lương Miền Bắc.



Sân khấu cải lương Miền Bắc từ năm 1985 đến 2000, còn nhiều đoàn cải lương Nhà nước do các Sở Văn hoá thông tin quản lý. Nhưng tính theo số đoàn đã suy giảm, vì có 2 đoàn sát nhập thành Nhà hát Cải lương Hà Nội, thì Đoàn Cải lương Chuông vàng, Kim Phụng không tách biệt nhau là những đoàn độc lập. Từ năm 1993, dù trong cùng Nhà hát vẫn là hai đoàn tham dự hội diễn, mỗi đoàn có vở riêng, nhưng đến năm 2000, tham diễn chung một vở gọi là Nhà hát Cải lương Hà Nội. Nghĩa là sau khi ông Ngọc Dư nghỉ hưu, thì Cải lương Hà Nội chỉ còn một đoàn của Nhà hát, còn trước đây ông Ngọc Minh một đoàn, Ngọc Dư một đoàn, Hội diễn nào Nhà hát cũng có hai vở diễn của hai đoàn mang thương hiệu riêng, so tài với nhau. Thế mới hay cách quản lý nghệ thuật, tưởng sát nhập vào đầu mối giảm đi, nhưng chẳng có tác dụng gì.

Đoàn Cải lương Bông sen trắng Nghệ An, sau hội diễn năm 2000, không đoạt giải liền bị giải thể, Nghệ An chỉ còn Đoàn dân ca tiến lên Nhà hát Dân ca Nghệ An. Sau buổi tham dự hội diễn năm 2000, Đoàn Cải lương Bông sen trắng vở Đối mặt với thời gian, tin từ Ban giám khảo lọt ra ngoài đoàn không đoạt giải. Ông đoàn trưởng là nghệ sĩ diễn viên, đạo diễn Đào Quý Phi nói là ốm nặng, ngất sỉu, bị choáng. Dù ông trưởng đoàn lâm bệnh đáng thương thế nhưng không thể thay đổi tình hình, qua sự ngất sỉu của ông đúng là phải “đối mặt với thời gian” như đòn trừng phạt định mệnh, không đoạt giải sẽ không tồn tại. Sự quản lý nghệ thuật là thế, một hiện tượng tương tự, Đoàn Cải lương Hoa Mai dự hội diễn năm 2000, đoạt giải bạc quá may mắn, vì ở nhà chuẩn bị giải thể, nhưng mang giải thưởng về đã được tồn tại, đến năm 2007, dù lực lượng diễn viên yếu nhưng đoàn tỏ ra lạc quan trụ vững. Các đoàn cải lương Bắc giảm sút một số đoàn tan rã, một số đoàn sát nhập vào Nhà hát, hoặc các dơn vị nghệ thuật tổng hợp gọi chung là Nhà hát. Những đoàn cải lương Bác giai đoạn cực thịnh từ 1985 đến 1990, có nhiều đoàn tư nhân nhưng không đáng kể bởi tổ chức và diễn viên chưa chuyên nghiệp như các đoàn: Đoàn Cải lương Nhân dân Hải Dương, Đoàn Cải lương Sông Tô, Đoàn Trưng Vương, Đoàn Bông huệ trắng... Đoàn lâu nhất là đoàn Nhân dân Hải Dương ra đời năm 1993 đến năm 1996 tan rã, Đoàn Bông huệ trắng – phụ trách là bà Vũ Thị Huệ cán bộ Viện Văn hoá - Bộ Văn hoá. Đây là thời gian bà sắp nghỉ hưu nên chân trong chân ngoài, đứng ra tổ chức đoàn, có lẽ đây là một đoàn tư nhân tổ chức khá chặt chẽ. Đoàn có đoàn trưởng, đoàn phó: Vũ Thị Huệ trưởng, Lê Canh phó. Tổng số diễn viên 25 người, lương tháng 250.000đ/người, lương thấp nhất là 125.000đ/người, đây là thời điểm năm 1991, đoàn trả lương cho diễn viên. Vào thời gian này nhiều đoàn cải lương tư nhân tan rã, sự tồn tại của đoàn như một bí quyết thành công về phương pháp quản lý doanh thu. Diễn viên của đoàn không ổn định, có thể tăng cường mời các nghệ sĩ từ đoàn Nhà nước vào diễn, đoàn chỉ có mấy diễn viên trụ cột. Thu Bảy, Thanh Hoa, Đoàn Trúc, Trung Thành, Phương Quyên... Đoàn dựng và diễn một số vở: Hai dòng sữa mẹ, Hai ngàn ngày oan trái, Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Dưới mái Tây Hiên...

Phương thức hoạt động của đoàn, trả lương theo đêm diễn, còn mức lương nêu trên là lương bảo hiểm hàng tháng, nếu ai ốm đau sẽ được hưởng. Hình thức dựng vở 1,5 triệu đồng một vở, thời gian từ 5 đến 7 ngày hoàn thành, đoàn đi diễn những nơi ít đoàn đến lưu diễn – xoá những điểm trắng hưởng thụ nghệ thuật của công chúng, chỉ ở đó mới có mức thu cao. Tuy vậy, đoàn thành lập năm 1990 đến năm 1993 tan rã.

Những đoàn cải lương tư nhân Miền Bắc, không có diễn viên ngôi sao, biểu diễn các đoàn hầu hết phải đến các vùng sâu vùng xa như Đoàn Cải lương Nhân dân Hải Dương thường lên Apatít Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Yên, Bảo Đài... Đoàn Sông Tô của Bảo Chân con gái ông Tuấn Sửu làm bầu thường đi diễn ở Nghệ An, Nông trường Đồng Giao, Sông Hiếu, Quảng Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang... Đoàn Trưng Vương, Quận Hai Bà do ái Thân làm chủ thường diễn ở Nhà Văn hoá quận, Thị xã Hà Đông, ra Quảng Ninh... Những đoàn cải lương tư nhân phía Bắc, hoạt động đến năm 1995 tan rã, vì không có công chúng, không đủ vốn hoạt động lâu dài.



1.3.Cải lương Miền Trung



Sân khấu cải lương Miền Trung xưa không phát triển, các đoàn cải lương Miền Trung ra đời xuất phát từ các đoàn cải lương Nam, thường pha trộn một vài diễn viên Miền Nam tham diễn. Nhưng vào giai đoạn hoàng kim nghệ thuật cải lương Miền Trung có một trang sử rực rỡ, cải lương Miền Trung do người Miền Trung làm chủ, có phong cách riêng không phụ thuộc vào cải lương Nam Bộ. Đây là giai đoạn rực rỡ của cải lương Miền Trung, nhưng chỉ như ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn chói lọi rồi vụt tắt không có bình minh. Các đoàn cải lương Miền Trung có số diễn viên đông, Nhà nước quản lý, ngoài ra còn các đoàn tư nhân các tỉnh có diễn viên Miền Nam hoặc đoàn trưởng là người Miền Nam, nhưng chỉ là cá biệt, những đoàn lớn, diễn viên đông là của cải lương Miền Trung, do người Miền Trung làm chủ.

Đoàn Cải lương Hoa biển, thành lập 20 – 10 năm 1977 tại Ninh Khánh, là đoàn cải lương do Sở Văn hoá thông tin tỉnh Phú Khánh quản lý. Tiền thân của đoàn hợp thành từ bốn đoàn cải lương tư nhân: Quốc Hương, Kim Chưởng, Ninh Khánh, Sông Dinh, nhập lại trước giải phóng gọi là Đoàn Cải lương Ninh Khánh. Vào tháng 1 – 1986, đoàn đổi tên thành Đoàn Cải lương Hoa biển, nếu tính về lịch sử tiền thân các đoàn cũ ra đời những năm 50, qua nhiều biến đổi quản lý: đoàn tư nhân - đoàn lập thể 1975, đoàn quốc doanh 1980... đã tồn tại gần nửa thế kỷ. Đoàn có lớp diễn viên đầu tiên: Thanh Hằng, Khánh Tuấn, Tài Linh, Quang Tuấn, Minh Phượng, Tuấn Vương, Trà Trí, Hồng Sỉu, Cẩm Vân, Mỹ Hoàng, Hồng Hạnh... Đoàn diễn các vở từ 1980 – 1985: Lục Vân Tiên – Trường Vũ, Thoại Khanh Châu Tuấn – Trường Vũ, Lửa thiêng trên đảo vắng – Lê Nhị hà, Ngôi sao biển – Lê Bá Sinh, Truyện cổ Bát tràng – Văn Biển, Kỷ niệm tình yêu – Thế Khoa... Giai đoạn 85 – 90 có các vở: Tiếng đàn thủa xa xưa – Lê Nhị Hà, Minh Lý, Công chúa Sa Mi – Lưu Mộng Long, Tìm lại cuộc đời, Thâm cung huyết lệ – Phạm Ngọc Sơn... Đoàn Cải lương Hoa biển là đoàn mạnh của sân khấu cải lương Miền Trung, nhiều lần ra diễn tại Hà Nội và các tỉnh Miền Bắc. Đoàn hoạt động đến năm 1993 tan rã.

Đoàn Cải lương Hoa biển có dàn kịch mục 35 vở,đề tài lịch sử, đề tài cuộc sống mới 20 vở, chưa kể những vở diễn của đoàn từ trước giải phóng, hoặc từ năm 1975 đến năm 1993, số vở diễn là 50 vở. Đây là đoàn cải lương được Nhà nước đầu tư, có phong cách cải lương Miền Trung, nhưng vào giai đoạn doanh thu thấp, đoàn không thể tồn tại khi Nhà nước không hỗ trợ kinh phí, đoàn tan rã năm 1993.

Đoàn Cải lương Sông Hàn, thành lập 1 – 7 – 1977, gồm ba đoàn tư nhân: Lý hương thu, Tuý nguyệt, Bảo toàn, đây là tên các bầu chủ, đồng thời là tên các đoàn cải lương. Những đoàn này hoạt động từ năm 1970, năm 1975 nhập thành hai đoàn: Sông Hàn I, II. Năm 1981, sát nhập lại là Đoàn Cải lương Sông Hàn.

Đoàn Cải lương Sông Hàn có 54 người, 22 diễn viên,còn lại là hành chính, do Nhà nước bao cấp nên số người ăn theo chiếm 50%. Từ năm 1977 – 1987, đoàn có các diễn viên: Thiên Nga, Hải Như, Linh Phụng, Thảo Sương, Linh Sơn, Nguyễn Thiện, út Hậu, Thiên Nga, Hải Thụ, Nhật Cường, Hoàng Khanh, Ly Lan... Những vở diễn của đoàn: Chiếc nhẫn ngọc – Tuấn Vinh, Thái hậu Dương Văn Nga – Trúc Đường, Gió bụi biên thuỳ – Hoàng yến, Âm mưu tình yêu – Huy Uẩn chuyển thể, Khát vọng mùa xuân – Châu Thuận, Dòng suối mang tên em – Phan Minh, Đôi dòng sữa mẹ – Ngọc Phương, Doãn Châu, Lưu Quang Vũ, Đất sống của người – Lưu Quang vũ, Nước mắt và bạo lực – Ngọc Tranh, Nửa đời hương phấn – Hà Triều, Hoa phượng...

Đoàn Cải lương Sông hàn đã tham gia các hội diễn sân khấu, nhiều lần ra Bắc, lên Tây Nguyên tham diễn, doanh thu cao. Đoàn do Sở Văn hoá bao cấp, có phong cách ca diễn riêng, dựng nhiều vở mang phong cách cải lương Miền Trung, nhưng sau nhiều năm doanh thu không đủ chi, năm 1996 đoàn tan rã.

Sân khấu cải lương Miền trung còn nhiều đoàn tư nhân như Sông Hương I, II, Sông Trà, Phú Yên, Hoa Bơ Lăng... nhiều tỉnh như Phúc Khánh, Thừa Thiên Huế có ba bốn đoàn, cả Miền Trung có 13 tỉnh thường xuyên có 15 (2)đoàn cải lương Nhà nước và tư nhân biểu diễn khắp nơi, ra Bắc, vào Nam, sang Bà Rịa – Vũng Tầu... Sân khấu cải lương Miền Trung có một giai đoạn cực thịnh, phát triển cùng cải lương cả nước, nhưng khi chuyển sang thời kinh tế thị trường các đoàn lần lượt tan rã đến năm 1997 Miền Trung không còn cải lương. Đồng bào Mìên Trung lại thường xuyên xem cải lương từ các đoàn Miền nam ra như Đồng Nai, Đồng Tháp, Sài Gòn I, Vũ Linh, Tây Đô... Cải lương Đồng Tháp gắn bó thường xuyên với khán giả Miền Trung, mỗi .......................................................................................................................

(2) Theo SKTP số ra ngày 13 – 12 - 1996

năm một lần lưu diễn dọc miền duyên hải và các tỉnh Bình Thuận, Phú Yên, Nha Trang... Sân khấu cải lương Miền Trung, đã một thời làm nên lịch sử là mảnh đất cải lương, có công chúng và những đoàn cải lương mạnh như nhiều đoàn cải lương các tỉnh. Nhưng sau nhiều năm các đoàn tan rã do các tỉnh chưa đầu tư cho sân khấu cải lương Miền Trung, dù công chúng còn mong muốn.



1.4.Sân khấu cải lương qua các hội diễn.



Suốt thời kỳ đổi mới có nhiều cuộc Hội diễn sân khấu toàn quốc, Hội diễn sân khấu 1985, kết thúc thời kỳ quan liêu bao cấp đẻ ra nền sân khấu ngợi ca một chiều, những tiết mục cúng cụ, nhiều vở diễn nói một phần hiện thực mới chỉ là những ám chỉ cạnh khoé. Đến Hội diễn 1985, mở đầu bằng những vở diễn nói thẳng nói thật, không úp mở, bóng gió xa xôi. Sân khấu tâm sự cùng công chúng, mở đầu kỷ nguyên sân khấu mới, sân khấu phê phán, phản ánh hiện thực mới.

Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, Sân khấu Hội diễn 1990 là thời gian kinh tế “khủng hoảng, đời sống khó khăn”, sân khấu tự quản do các đoàn tự thu chi(3) theo nhận định chính thức của một thành viên Ban tổ chức. Nhưng tham dự Hội diễn đông, nhiều đòan, nhiều vở diễn nhất trong lịch sử Hội diễn sân khấu Việt Nam. Số đoàn tham diễn 80 đoàn, 92 vở diễn của các thể loại chèo, tuồng, kịch nói, múa rối, kịch dân ca, cải lương, cùng 4000 diễn viên. Ban giám khảo trao tặng 657 giải thưởng, theo nhận định của Ban tổ chức hội diễn là: thành công tốt đẹp. Liên hoan mang hơi thở cuộc sống, nhiều nhân vật trong những vở cải lương bị lên án hành động phi nhân tính – tỏ thái đọ kêu gọi bảo vệ chân lý. Phải nói hội diễn như một thông điệp chuyển hoá xã hội, trước sự nghiệp đổi mới tác động đến vận mệnh quốc gia. Cải lương Bắc có các đoàn:

Đoàn Cải lương Hải Phòng. Sau bức màn nhung, Vũ Hải, Đoàn thanh Hoá vở Hai ngàn ngày oan trái – Lưu Quang Vũ, Nhà hát cải lương TW vở: Khi thành phố lên đèn – Trang Phượng (Ngọc Phương), Trả giá cuiộc đời – Chiến Thạc, Ngọc Hồ, Đoàn Cải lương Hùng Vương (Vĩnh Phú) vở Tàn héo những ước mơ - Chiến Thạc, Đoàn Cải lương Hoa Mai vở Ông thánh sinh đôi – Tất Đạt, Đoàn Cải lương Bông sen trắng vở Xôn xao rừng quế – Phan Lương Hảo, Đoàn Chuông vàng vở Vòng hào quang tội lỗi – Phùng Dũng, Đoàn Cải lương Kim Phụng vở Vụ án một Vương Phi – Vũ Đình Phòng,

..............................................................................................................................

(3)Theo NSHD Ngọc Phương báo cáo tại Viện sân khấu 15 – 3 - 1993

Đoàn Cải lương Quảng Ninh vở Bỉ vỏ – chuyển soạn Võ Khắc Nghiêm, Đoàn Cải lương Kim Phụng vở Khi tình yêu đã chết – Anh Biên, Đoàn Chuông vàng vở Hoa quỳnh trong phủ chúa – Phùng Dũng, Đoàn Cải lương Thái Bình vở Tiếng hát Cao Nguyên – Ngọc Thụ, Đoàn Cải lương Hà Nam Ninh vở Nỗi đau người mẹ – Vũ Hải. Đoàn Cải lương Thanh Hoá vở Ngai vàng rung chuyển.

Đây là hội diễn thể hiện sức mạnh kinh tế và nghệ thuật của các đoàn cải lương do Nhà nước bao cấp, còn nói là kinh tế khó khăn thì lúc nào nhân dân ta cũng khó khăn như hiện nay 20% số dân thành thị có ô tô, 90%có xe máy, trung bình mỗi nhà có hai xe máy, nhưng đời sống vẫn khó khăn. Lại nói về Hội diễn sân khấu năm 1990, là năm cuối thời kỳ hoàng kim sân khấu cải lương, đến năm 1993, công chúng suy giảm mạnh, sân khấu khủng hoảng, nhưng kinh tế không khủng hoảng vì thế các đoàn mới đua tranh nhiều đoàn diễn haivở tham dự hội diễn. Những hội diễn sau nhiều đoàn không đủ khả năng tham dự, hầu hết các đoàn chỉ cố gắng dự thi một vở cho có mặt trình làng, còn kinh phí ít không có thời gian dựng công phu.

Hội diễn 1990, tiếp tục sân khấu phê phán, tâm sự cùng công chúng, những vở đề tài cuộc sống mới lên án mạnh mẽ hơn, phê phán lối sống phi nhân tính của lớp người mới xuất hiện thời kỳ đổi mới. Quan chức, thường dân, mỗi người có một lối sống riêng vì lợi ích của bản thân, phá bỏ phẩm giá con người, sẵn sàng trà đạp lên tất cả. Mỗi vở cải lương như một thông điệp xã hội về những mảng tối, thân phận mỗi con người bị đe doạ bởi lối sống xô bồ thiếu định hướng của xã hội mới. Các tác giả không mô tả những nhân vật thánh thiện, những người tốt việc tốt, những con người hoàn thiện như sân khấu ngợi ca. Sân khấu ngợi ca và nền văn học ấy, sau giải phóng nhiều độc giả nứơc ngoài phát biểu cảm tưởng rằng “đọc truyện của các bạn như những ông thánh nói chuyện với nhau”. Khi chuyển sang sân khấu phê phán, các tác giả không mô tả những nhân vật anh hùng, những sự kiện nỏi bật, mỗi vở phản ánh những câu chuyện đơì thường, đây là bước đổi mới văn học kịch và sân khấu cải lương về đề tài cuộc sống, nhân vật trong những vở diễn, đến cùng khán giả sáng tạo và tâm sự. Vở Nỗi đau người mẹ (Nỗi đau tình mẹ –Vũ Hải), là vở diễn xúc động kể chuyện về một người mẹ có nhiều con, đứa nào cũng giàu có, nhà lầu, xe máy sang trọng, nhưng nghĩa vụ nuôi mẹ thì cắt lân nhau, cãi nhau đùn đẩy nhau để kết cục người mẹ phải ra đường xin ăn và bị ô tô đâm chết. Đó là một thông điệp về sự tha hoá đạo đức truyền thống dân tộc của lớp người thời kỳ đổi mới, vở diễn chỉ kể chuyện trước công chúng khiến họ phải rơi lệ. Qua những vở diễn sân khấu Miền Bắc năm 1990, một số người đã tổng kết các nhân vật sân khấu 5T: tội tình tù tử tắc. Sự bế tắc số phận lớp người mới, mất phương hướng hành động sống, họ như con thiêu thân lao vào vòng xoáy đổi mới làm giàu, sống sa đoạ rơi vào vòng tội lỗi. Sự bế tắc của các nhân vật như chính xã hội những năm đầu đổi mới, xã hội chưa ổn định, chưa có mô hình kinh tế mới, các nạn vỡ hụi, lừa đảo, sập quỹ tín dụng... nhân dân hoang mang giao động, bon xã hội đen hoành hành ngang nhiên ngay giữa ban ngày. Những bế tắc ấy ngay các tác giả còn chưa có cách giải quyết trong mỗi vở diễn. Các tác giả chỉ tố cáo, lên án, phơi bày sự thật, những mặt trái con người, xã hội, công lý đảo điên để mọi người biết những thông điệp cảnh báo.

Sân khấu cải lương Nam, chuyển biến mới hơn, các tác giả lên án cơ chế bao cấp bảo thủ, thiếu định hướng phát triển xã hội đang là lực cản bước tiến của lớp người mới. Dù lớp người thời mở cửa, cũ mới, già trẻ, thành tích đầy mình. Lớp trẻ trí tuệ... mỗi người mỗi vẻ có tiến bộ và tội ác, người bảo thủ phạm tội... Nhiều vở cải lương đương đại nhấn thẳng vào sự thật mô tả hiện thực xã hội, lớp người mới họ đang hoạt động đổi thay xã hội. Hội diễn sân khấu đợt V tại thành phố Cần Thơ, ngày 22 – 12 – 1990 có 10 đoàn cải lương Nhà nước và tư nhân tham diễn.

Đoàn Sông Hậu I, vở Bản tình ca đêm chơi vơi – Ngô Hồng Khanh, Đoàn Tiếng ca trung hiếu, vở Tình không biên giới, Đoàn Sông Tiền vở Đừng quên kỷ niệm, Đoàn Cửu Long vở Quay về kỷ niệm, Đoàn Châu Long (An Giang) vở Nữ chúa phù Nam, Đoàn Tuổi trẻ (TPHCM) vở Yêu anh từ độ ấy, Đoàn Thanh Nga vở Dòng sông dĩ vãng, Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang vở Kẻ ngoại tình, Đoàn Cải lương Hương mùa thu vở Cánh cửa trái tim.

Những vở cải lương của các đoàn 100% đề tài cuộc sống mới, nội dung phản ánh những câu chuyện ngày thường. Các vở diễn phê phán sự sa ngã của lớp người mới trước sự cám dỗ tiền tài, gái đẹp, địa vị, họ phản bội lại chính mình, cả truyền thống gia đình cách mạng... như vở Quay về kỷ niệm, Đừng quên kỷ niệm, Kẻ ngoại tình. Các tác giả hé mở nỗi lo toan trăn trở về sự tồn tại một xã hội tương lai, dù có lớp trẻ tài năng đang tìm đúng hướng chuyển hoá xã hội, đây là nhân tố mới nhưng họ đang bị trói buộc qua sự đổi mới thiếu định hướng, chậm phát triển trước thực tiễn. Sân khấu Hội diễn 90, có những vở diễn hầu hết đáp ứng mạch đập công chúng, sân khấu: đích thực – sân khấu giải trí – sân khấu thương mại. Ngày ấy, mọi người quan niệm sân khấu thương mại là xấu, là yếu kém, quả có một số vở diễn của một số đoàn tư nhân yếu kém về nội dung, nhưng không thể quan niệm sân khấu thương mại là xấu. Ngày nay, có những vở diễn sân khấu thương mại là diễn phúc bởi nó vực dậy cả đoàn có đời sống bằng doanh thu, khi cả nước đi buôn thì không còn quan niệm thương mại là xấu. Những vở diễn xấu, hoặc yếu kém là từ nội dung, hoặc vi phạm những nguyên tắc thẩm mỹ, ngay những vở diễn sân khấu chính luận yếu kém, hoặc vi phạm sẽ là những vở xấu, đâu có thương mại là xấu.

Thường nói tới sân khấu thương mại là sân khấu doanh thu, các đoàn cải lương Nhà nước, tư nhân diễn doanh thu đã có những vở mới là sân khấu đích thực được công chúng đồng tình. Nhiều vở sau hội diễn không bị đóng gói bỏ vào kho, có số vở diễn vài ba trăm đêm, là bước tiến mới sân khấu cải lương sau hội diễn, không cón khoảng cách với khán giả. Nếu hội diễn 85, sân khấu phê phán, không lối thoát, đến Hội diễn 90, hé mở ánh sáng le lói cuối đường hầm tin vào lớp trẻ tài năng, bản lĩnh trí tuệ. Nhiều người gọi đó là sân khấu đích thực, nói những chuyện đời thường, hé mở niềm tin ở phía trước, dù là mong manh, đó là những nhân tố tích cực hướng vào sự nghiệp đổi mới. Đây là từng bước chuyển biến thực tiễn xã hội chuyển vào các vở diễn sân khấu cải lương,dù các tác giả Mìên Bắc còn phê phán nặng hơn. bế tắc,, thì các vở diễn cải lương Nam đã hé mở có hướng mới. Hướng mới ấy đến Hội diễn sân khấu 95, càng sáng tỏ hơn qua các vở diễn mới.

Hội diễn sân khấu toàn quốc 95, có số diễn viên, số đoàn so với năm 1990 đã suy giảm, số người tham diễn 3000 người, 78 đoàn, 83 vở diễn. Ban giám khảo trao tặng 237 huy chương vàng, 278 huy chương bạc cho diễn viên các đoàn tham diễn.

Các đoàn Cải lương Bắc tiếp tục sân khấu phê phán, nhưng từ những vở diễn tại Hội diễn 90, hé mở niềm tin ở xã hội tương lai thì Hội diễn 1995, là một lối thoát khẳng định đổi mới là tất thắng, mô hình chuyển đổi kinh tế, hướng đi đã rõ ràng như vở Ai tỉnh ai điên, tác giả Sĩ Hanh, chuyển thể Huy Uẩn, tác giả kể lại câu chuyện trong một gia đình, mỗi người sống theo ý thích riêng của mình, không ai quan tâm đến ai. Người ông là đại tá về hưu có bảng vàng thành tích làm chỗ dựa cho thế hệ tương lai, ông bị họ lợi dụng lao vào cuộc chiến. Đó là câu chuyện ông Việt bố chồng Hà người con dâu làm giàu cho cả gia đình, cô quan niệm đó là đổi mới. Tác giả trình bầy những mâu thuẫn xung đột giữa các nhân vật về quan niệm của mỗi người trong cơ chế thị trường, ai tỉnh ai điên trước hiện thực mới. Chiến chồng Hà chỉ lo công việc quan liêu đến mức chẳng biết gì về cuộc sống gia đình, Dũng con của Hà và Chiến lại tự lập bằng cách tự đi bơm xe đạp để kiếm sống. Mỗi người một lối sống riêng âm thầm giữa dòng đời xuôi ngược của xã hội đang đổi mới vỡ tung từng mảng, mọi người đua chen trước thời cuộc, Hà là mẫu người “đổi mới ấy”. Hà cho rằng có tiền là có tất cả, cô buôn bán bất dộng sản, lợi dụng kẽ hở để làm giàu, cuối cùng bị phá sản cô trở thành kẻ điên dại. Kết thúc vở diễn tác giả có hướng giải quyết để mọi người suy ngẫm lại mình ai tỉnh ai điên, có nhân tố mới hành động đúng, cháu nội ông Việt, cô con dâu cùng lớp thanh niên hướng tới tương lai đổi mới đúng hướng bảo vệ truyền thống và xây dựng quê hương mới. Những vở hội diễn cải lương Bắc không phơi bày bỏ ngỏ sự thật đen tối phũ phàng, mà hướng tới tương lai khẳng định đổi mới một mô hình xã hội mới của nền kinh tế thị trường. Dù đổi mới đến đâu mọi người phải giữ lấy những gì là phẩm giá con người truyền thống đạo đức văn hoá dân tộc, truyền thống cách mạng là hành trang vào đời đổi mới. Đoàn Cải lương Thanh Hoá vở Con đò của mẹ – Hoàng Ân, Đoàn Cải lương Quảng Ninh vở Người sót lại của rừng cừu, Nhà hát Cải lương Việt Nam vở Ngọc chính tâm – Ngọc Thụ, Đoàn Cải lương Hải Phòng vở Vẫn chưa muộn – Sĩ Hanh, Đoàn Cải lương Nghệ An vở Ngọn lửa truyền đời sau – Hoài Giao, Đoàn Cải lương Hùng Vương vở Chuyện tình Âu Lạc – Phùng Dũng, Đoàn Cải lương Thái Bình vở Oan khuất một trời... Đến Hội diễn 95, cải lương Bắc phân tán hướng đề tài vở diễn, những vở lịch sử, những vở chống tham nhũng, những vở đề tài chiến tranh, nêu cao truyền thống cách mạng... Sân khấu cải lương Bắc chuyển hướng đề tài, sau Hội diễn 95, đến Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 2000, càng lộ rõ những yếu điểm của tác giả cải lương Bắc về sự già cỗi, hoặc khôn ngoan ngại va chạm và dư luận.

Hội diễn sân khấu cải lương đợt II năm 1995, tại thành phố Hồ Chí Minh, có 17 đoàn tham diễn, với 700 người tính cả nhân viên hậu đài... vào dự thi. Nhiều vở diễn phản ánh hiện thực cuộc sống mới không mãnh liệt như hội diễn 90, bắt đầu phân tán nội dung đề tài, hé mở thân phận con người sau chiến tranh, hoặc cảnh tỉnh mọi người trong lối sống ứng xử mới như các vở: Loài hoa không tên, Đoàn Cải lương Tây Đô, tỉnh Cần Thơ, Nỗi đau năm tháng, Đoàn Cải lương Chuông vàng, tỉnh Sóc Trăng, Bản tình ca quê mẹ, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, Quê hương và mẹ, Đoàn Cải lương Bến tre, Nước mắt người tình, Đoàn Văn công Đồng Tháp, Chỉ là kỷ niệm, Đoàn Cải lương Long An, Giấc mộng không tên, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, Bóng biển, Đoàn Cải lương Hương Tràm, Yêu người hát dân ca, Đoàn Cải lương ánh hồng, Trà Vinh, Khu vườn của ngoại, Đoàn Sài Gòn III, Nước mắt đen, Đoàn Sài Gòn I, Không là cát bụi Đoàn Văn công thành phố, Dưới đáy dòng sông, Đoàn Cải lương Hương mùa thu, Sóng cuộn tình đời, Đoàn Cải lương Tiếng hát Tiền Giang, Đèn đêm nhỏ lệ, Đoàn Cải lương Thanh Nga... Hội diễn có hai đoàn cải lương tư nhân tham dự là Thanh Nga, Hương mùa thu đồng giải ba. Các đoàn cải lương tư nhân tham dự hội diễn đoạt giải thấp, hoặc có lần còn những vở kém, họ so tài vào đây có vẻ lạc điệu vì quen lối diễn ngoài sân bãi. Những vở cải lương trong hội diễn là những vở khẳng định sức mạnh nghệ thuật, các đoàn Nhà nước đầu tư đồng bộ về sân khấu, nội dung vở diễn, nghệ thuật diễn, âm nhạc, mỹ thuật, phục trang... là những vở diễn học thuật, có tính định hướng thẩm mỹ sân khấu. Phải đợi đến Hội diễn sân khấu những năm đầu thế kỷ mới, sân khấu tư nhân phát triển mạnh ở các tỉnh phía Nam họ mới có vở diễn đua tài cùng các đoàn Nhà nước.


Hội diễn sân khấu 1995, chủ đề vở diễn bắt đầu phân tán về các hướng đề tài không tập chung phản ánh hiện thực xã hội như hai Hội diễn 1985 – 1990, đây là hai Hội diễn mạnh nhất trong lịch sử các Hội diễn sân khấu của Hội nghệ sĩ sân khấu và Bộ Văn hoá. Theo các hướng đề tài, phản ánh hiện thực xã hội mới, Hội diễn năm 2000, sân khấu khẳng định xã hội đổi mới thành công, mô hình xã hội đã rõ, dù còn thiếu nhiều điều luật, giải pháp phát triển đời sống dân sinh và các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhưng mọi người đã tỉnh sau “giấc mộng đổi mới”. Sân khấu bắt đầu ổn định, ổn định trong sự giảm sút công chúng, ổn định trong phương thức phản ánh hiện thực, nhiều vở diễn từ hội diễn bắt đầu xa lánh người bạn tâm sự đích thực của mình là công chúng. Các đoàn dựng vở diễn xong cho vào kho, không phải những tiết mục cúng cụ nhưng chẳng ai muốn xem nhất là những đoàn cải lương Bắc. Nhiều đoàn cải lương Nam vở dự hội diễn một đằng, doanh thu diễn số vở khác. Dù sân khấu cải lương Nam còn theo sát hiện thực, có vở nói thẳng nói thật, được công chúng đồng tình nhưng chỉ là số ít.

Hội diễn sân khấu cải lương năm 2000, tại thành phố Hồ Chí Minh, cải lương Bắc 9 đoàn tham diễn 9 vở, 8 vở viết về đề tài lịch sử, 1 vở viết về cuộc sống mới. Cải lương Nam 12 đoàn tham diễn 12 vở, có một vở viết về cuộc sống hiện tại, 11 vở hồi ức chiến tranh, nỗi ám ảnh của con người sau chiến tranh họ sống như thế nào không mắc vào vòng tội lỗi, hoặc gục ngã trước hiện thực phũ phàng. Hội diễn có 825 diễn viên tham gia, ngầm thông báo hồi sinh đôi chút so với các hội diễn trước. Những thông tin về số đoàn, số vở diễn, nội dung đề tài... Cho thấy Hội diễn sân khấu năm 2000 có nhiều ngã rẽ không tập chung phản ánh hiện thực mới như hội diễn năm 85 – 90. Hội diễn năm kết thúc thế kỷ XX, tiếp tục những ngã rẽ của Hội diễn sân khấu 1995. Mỗi Miền cải lương theo một đường hướng riêng, cải lương Bắc xa lánh hiện thực phũ phàng trốn vào đề tài lịch sử, nói cạnh khoé một chút, lại lấy xưa nói nay. Nhiều tác giả phàn nàn cho là chế độ kiểm duyệt quá nghiêm ngặt nên để được công diễn phải tìm vào lịch sử, còn cải lương Nam lại lấy thân phận con người sau chiến tranh để đặt cược vào cuộc sống hiện tại. Nhiều vở diễn lên án lối sống lớp người mới khá táo bạo, nhưng ngầm ngợi ca nêu gương người tốt việc tốt, đây là hướng mới hé mở cho Hội diễn những năm đầu thế kỷ.

Những vở diễn cải lương Nam, có phần ngợi ca, nêu gương mới, nhưng không phải thứ ngợi ca một chiều mà phản ánh con người có hai mặt ưu điểm và khuyết điểm, mỗi người có một tính cách tâm trạng riêng tư, đặc biệt mảng đề tài người lính sau chiến tranh họ là anh bộ đội giải phóng, cô thanh niên xung phong, chiến công và lòng quả cảm chói ngời. Họ chiến đấu vì tổ quốc, hy sinh vì dộc lập giải phóng quê hương. Nhưng họ không phải con người thánh thiện, họ có đầy khuyết điểm riêng tư yêu đương ở ngoài chiến trường có con khi chưa hôn thú, vi phạm kỷ luật... Nhiều cô gái không dám nhận sự thật chạy trốn tình yêu, xa lánh mọi người, vì sợ dư luận quá khắc nghiệt của thời chiến tranh, lại có người lính mang một tình yêu đẹp hứa hẹn thuỷ trung, nhưng sau khi thoát khỏi cuộc chiến bỏ lại người yêu có thai đang chiến đấu ở chiến trường về đi học tại Liên Xô. Từ đấy anh ta bỏ trốn tình yêu, dấu mọi người. Sau hoà bình lập lại anh làm giám đốc, có học vị, địa vị cao, rũ bỏ quá khứ... Mỗi người lính có một cách sống sau chiến tranh, lại có người chỉ có tài bắn súng, khi chuyển sang làm kinh tế họ phải đi bán máu để kiếm sống qua ngày, nhưng quyết giữ phẩm giá để vượt qua bóng tối. Nhiều vở cải lương đề tài chiến tranh phản ánh đa dạng tính cách con người, phản ánh hiện thực xã hội như cac vở Đôi bờ – Lê Duy Hạnh, Huyền thoại một tình yêu – Hùng Tấn, Bến xưa, Quãng đời còn lại – Hà Quang Văn... Hội diễn nổi bật hai vở không được giải nhưng có những bứt phá mới về cấu trúc kịch bản và nghệ thuật diễn.

Vở Dòng sông đỏ – Ngô Hồng Khanh, Chuyện bên vỉa hè, một vở phê phán quá mạnh hiện thực mới, vở kia diễn tả cuộc chiến tranh khốc liệt, hùng tráng lấy ngôn ngữ múa hình tượng đẹp như những bức tượng về người lính đặc công anh hùng tạc vào thế kỷ. Vở cải lương Chuyện bên vỉa hè, nặng về phê phán người đảng viên, núp dưới danh nghĩa chức quyền, ô dù che chắn cho con, cùng con trai mở công ty trách nhiệm hữu hạn tuyên bố công khai không nhận những ai là đảng viên, bộ đội vào công ty. Một vở diễn phản ánh những thế hệ đảng viên, lớp đảng viên sau chiến tranh lại đang suy thoái, người an phận điền viên chén rượu, mảnh vườn. Người chạy theo tiền tài phản bội quá khứ vàng son cùng người đồng đội đổ máu trên chiến trường, nay sẵn sàng tiêu diệt nhau trong cuộc chiến mới. Chỉ còn số ít đảng viên giữ vững phẩm giá tuyên ngôn của Đảng, đây là vở diễn hiện thực nói về sự mất tính chiến đấu trong Đảng, mất niềm tin của quần chúng. Hầu hết các vở hội diễn về đảng chỉ ngợi ca, đây là vở duy nhất nói về sự yếu kém của những đảng viên thời kỳ đổi mới. Nhưng chỉ cần có đảng viên chân chính dù là số ít thì họ biết tập hợp quần chúng lập lại trật tự kỷ cương, ủng hộ lớp người mới xây dựng xã hội tương lai như kết thúc vở Chuyện bên vỉa hè. Như vậy có phải chế độ kiểm duyệt quá nghiêm khắc?. Tuy nhiên sự kiểm duyệt là chung nhưng hai miền có khác nhau, những cái đầu quản lý xứ Bắc bị khô cứng, sợ trách nhiệm, mặt khác nhiều tác giả ngoài Bắc đã bị văng ra khỏi hiện thực cuộc sống mới, chỉ biết đào bới lịch sử mờ nhạt, thiếu những chi tiết hay, những nhân vật mang tầm vóc lịch sử. Sân khấu Miền Bắc sau khi mất Lưu Quang Vũ, Xuân Trình, Tào Mạt các vở diễn không được công chúng hào hứng, bán vé không có người xem. Đó là một thực tế sân khấu và cải lương Bắc thiếu tác giả, thiếu vở diễn về cuộc sống mới. Hai vở kể trên lạc điệu trong hội diễn nhưng đi diễn doanh thu cao.

Hội diễn sân khấu năm 2000, cải lương Bắc có ba vở được giải Kẻ sĩ Thăng Long – Nguyễn Khắc Phục - đạo diễn Doãn Hoàng Giang, Phùng Khắc Khoan – Trần Đình Ngôn - Đạo diễn tác giả, Vằng vặc ánh sao khuê, đạo diễn Lê Chức tổ chức những mảng diễn trang trọng mang tính học thuật và nghệ thuật. Lê Chức tổ chức lớp giao đãi bộc lộ tính nhân nghiã đồng hiện ba không gian là ba giai đoạn cuộc đời của Nguyễn trãi tóm gọn vào một con người tạo hình tượng nhân vật. Ông còn tổ chức một số mảng diễn đầy chất thơ chữ tình của tình yêu Thị Lộ – Nguyễn Trãi trang trọng thiêng liêng, ấn tượng xúc cảm đáng nhớ. Nhiều sáng tạo khác của đạo diễn về nghệ thuật diễn, mỹ thuật, phục trang làm vở diễn hấp dẫn. Vở diễn trang nghiêm, trữ tình, đằm thắm, xúc cảm. Vở kẻ sĩ Thăng Long, Doãn Hoàng Giang nhiều sáng tạo về không gian sân khấu, tạo những lớp diễn xúc cảm, bi hùng hoành tráng, nhiều người xem phải lau nước mắt. Doàn Hoàng Giang tạo một không gian sân khấu mới cho vở cải lương đề tài lịch sử, đặc biệt mỹ thuật mảng khối trung tính. Vở Phùng Khắc Khoan, Trần Đình Ngôn thể hiện nhân vật họ Phùng là con người trí thức không gặp vua hiền, tôi trung đành trốn về cõi dân gian. Ông bỏ bao công phò vua giúp nước, bao lần chẳng thành. Ông như những người trí thức đầu thai lầm thế kỷ, nhưng không vì thế hờn giận với đời. Ông Phùng mang tri thức phục vụ dân sinh, ở đâu người trí thức vẫn là ngọc sáng. Tác giả mở hướng đạo diễn mới, biến vở cải lương như bài thơ tình, hay một bức tranh lụa mượt mà óng chuốt. Có những mảng mầu tương phản hơi mạnh nhưng toàn vở là một hoạt cảnh cải lương thi vị, ngọt mùi. Một phát hiện mới về hướng phát triển cải lương lịch sử, biến vở diễn đẹp như bức tranh lụa Hà Đông.

Những vở cải lương Nam Bắc, đề tài lịch sử, chiến tranh, cuộc sống mới có nhiều hướng thể hiện nội dung sáng tạo của các đạo diễn mở đường cho sự nghiệp cải lương kết thúc thế kỷ bước sang thiên niên kỷ mới. Đặc biệt phương pháp biên kịch, nghệ thuật đạo diễn mở ra sự giao lưu, hội nhập với các nền sân khấu phương Tây hậu hiện đại.



1.5.Nghệ thuật biên kịch.



Xưa nay mọi người quan niệm kịch bản cải lương là sân khấu tự sự như Hê Ghen đã phân biệt: điều tôi nói về người khác là trần thuật, kể huyện, điều tôi nói về tôi là trữ tình, điều tôi nói với mọi người là kịch. Sân khấu cải lương khởi điểm là tự sự trữ tình, nhưng qua các giai đoạn phát triển kịch bản đã đổi mới.

Giai đoạn 1918 – 1945, kịch bản cải lương cấu trúc câu chuyện kịch tự sự trữ tình có 150 vở, thuộc loại kinh điển xuất sắc như Kiều, Lục vân Tiên – Trần Duy Toản, Cô ba lưu lạc, Tham phú phụ bần – Nguyễn Phong Sắc, Trần Hữu Trang có các vở: Khúc oan vô lượng, Tô ánh Nguyệt, Lửa đỏ lòng son, Đời cô Lựu, Lan và Điệp, Tấm lòng quê, Chị chồng tôi, Khi người điên biết yêu, Tìm hạnh phúc. Năm Châu các vở: Giọt lệ cương thường, Vẹn tấm lòng son, Võ Tòng sát tẩu, Ngọn cờ hiệp nữ, Tiếng nói trái tim, Đoá hoa rừng, Trường hận, Tây Thi gái nước Việt, Hồn bướm mơ tiên, Miếng thịt người, Gió ngược chiều, Trương Định, Nghêu Sò ốc Hến, Nguyễn Đăng Phong, Trang tử cổ bồn... Ngoài Bắc các tác giả Phạm Ngọc Khôi, Ngọc Văn, ái Liên, Vũ Đào, Đào Mộng Long, Sĩ Tiến... mỗi người có từ 5 đến 10 vở được các đoàn diễn sống với thời gian... các vở cải lương tuồng cổ, cải lương đương đại, những vở lãng mạn trữ tình, những vở hiện thực phê phán, kiếm hiệp kỳ tình, cải lương trinh thám... Nguyên tắc cấu trúc kịch bản tự sự, văn chương còn nguyên chất biền ngẫu, thơ đường luật, lục bát xuất hiện trong các làn điệu bài bản cải lương. Văn biền ngẫu chiếm đa phần trong kịch bản cải lương từ thoại đến ca, phi văn phong biền ngẫu bất thành cải lương. Từ năm 1930, xuất hiện nhân tố văn học cách mạng, văn phong biền ngẫu suy giảm vì phát hiện ra lối cấu trúc cũ, xáo mòn. Văn học cách mạng, phong trào thơ mới vào cải lương có tính hiện thực hơn, nhưng là sự đan xem cũ mới chưa thực sự đổi mới văn phong cải lương.

Từ 1945 – 1955, kịch bản cải lương đang chuyển hoá từ văn phong nửa cũ, nửa mới chuyển sang nền văn học sân khấu kháng chiến, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Văn phong cải lương có ngôn ngữ văn học theo sát hiện thực cuộc sống mới, đó là dòng cải lương cách mạng, kháng chiến có khoảng 30 vở như Ván cờ thế, Đánh thành cổ lộng, Dành ánh sáng tự do,Trần Hưng Đạo bình vương, Du kích Thăng Long... Những vở cải lương từ 1955 – 1975, sân khấu cải lương Bắc và cải lương giải phóng Nam Bộ có khoảng 80 vở kinh điển như Kiều Nguyệt Nga, Triệu Trinh Nương, Bà mẹ sông Hồng, Nổi gió, Lý Thường Kiệt... Những vở qua các đợt hội diễn, xuất hiện lớp tác giả mới: ái Sơn, Tuấn Hợp, Ngọc Thụ, Lưu Mộng Long, Tuấn Vinh, Nhật Tâm,Nhật Minh, Huy Uẩn, Đình Tư... Miền Nam có đội ngũ tác giả hùng mạnh đông gấp 20 lần Miền Bắc, viết hàng trăm vở đề tài cuộc sống mới. Về cấu trúc kịch bản đã thay đổi, chất tự dự giảm dần, xen vào đó là những màn đối thoại, độc thoại, văn biền ngẫu là thứ yếu. Văn phong cải lương, xây dựng câu chuyện kịch xung đột mạnh gần với kịch nói, đây là bước đổi mới cấu trúc kịch bản cải lương từ vở Bà mẹ sông Hồng đến vở Nổi gió... Tại Miền Nam vùng căn cứ giải phóng các đoàn văn công có các vở mang hơi thở cuộc sống mới, tính đối thoại cao như Đâu có giặc là ta cứ đi, hoạt cảnh cải lương Mùa xuân - đất nước, Hương bưởi, Cánh chim soi gương...

Kịch bản cải lương từng bước đổi mới văn phong, đổi mới cấu trúc kịch bản, đến sân khấu cải lương thời kỳ đổi mới, kịch bản đổi mới với sân khấu đổi mới. Những vở cải lương Hội diễn 1985 – 1990, văn phong chính là văn xuôi, lời thơ mới dan xen chút biền ngẫu. Cấu trúc hình thức kịch bản không kể chuyện đơn tuyến, kịch đa tuyến nhiều tình tiết đan xen nhau, mở nút, thắt nút, cao trào, xung đột bạo liệt... Cấu trúc kịch bản theo kịch nói, dù còn giữ nội dung kể chuyện nhưng bố cục dàn cảnh, sắp đặt tình tiết câu chuyện kịch khác xa những kịch bản cải lương tự xưa trở thành “truyền thống”, cổ điển. Cấu trúc kịch bản mới, văn phong xuất phát từ nội dung đề tài, nội dung câu chuyện kịch nổi lên sân khấu phê phán, thay thế sân khấu ngợi ca. Về nội dung cac vở cải lương Hội diễn 85, là bước ngoặt lịch sử kịch bản cải lương mang nội dung phê phán lớp người nhân danh đổi mới, tố cáo phơi bày hiệnthwcj xã hội. Sân khấu phê phán khác biệt sân khấu ngợi ca, đến Hội diễn 90, nhiều người gọi là “sân khấu đích thực”. Sân khấu nào chẳng đích thực, lại còn sân khấu giả dối chăng? Nhưng họ không muốn gọi là sân khấu phê phán vì bước sang giai đoạn mới khi mô hình đổi mới đã hiện ra, những vở cải lương vừa phê phán, ngầm ngợi ca những con người bình thường họ vấp ngã, lấm bùn từ tội ác đứng lên làm người lương thiện, nên gọi là sân khấu đích thực. Đích thực với cuộc sống, đích thực của công chúng, khác với sân khấu phê phán không lối thoát, nhưng không đồng hành với sân khấu ngợi ca. Nhà thơ Việt Phương đã viết những câu thơ ngợi ca về nền văn học ngợi ca rằng: “năm xưa ta vô tình tô đẹp cuộc đời để ta tin, ta đâu biết lẽ đời râu bể, chưa thấy chỗ lõm chỗ lồi trên đỉnh trăng sao, chưa thấy vết bùn trên tận đỉnh núi chín tầng cao (6). Ngày nay, có Bộ trưởng, Thứ trưởng sống như bọn xã hội đen, nhiều quan chức cấp huyện, phường ăn chia với bọn đầu gấu... vì thế sân khấu không tô hồng mà đả kích, đó là sự đổi mới nội dung và cấu trúc kịch bản.

Những kịch bản cải lương cấu trúc xung đột bạo liệt đa tuyến có cả những vở cải lương chính luận, kịch luận đề, văn phong hiện đại. Phản ánh hiện thực mới đó là quá trình đổi mới cấu trúc cốt truyện, văn phong cải lương. Những vở diễn mới đầy đủ nghệ thuật diễn mới, đổi mới sân khấu từ nội dung hình thức đến kịch bản.



1.6.Nghệ thuật diễn.



Nghệ thuật diễn cải lương giai đoạn 1985 – 2000, là sự đổi mới sâu sắc, vì các diễn viên luôn học tập nâng cao trước nhu cầu công chúng, sự giao lưu văn hoá nghệ thuật hiện đại tạo bước chuyển mới. Những nghệ sĩ cũ như Bạch Tuyết, Ngọc Giàu, Minh Vương, Lệ Thuỷ, Diệp Lang, Thanh Tuấn, Thanh Tòng, Thanh Kim Huệ, Thanh Hương, Kim Hà, Thanh Thanh Hiền, Huyền Châu... là những hạng sao cải lương Bắc, tự họ đã đổi mới, diễn nội tâm sâu sắc.

Không thể dẫn ra nhiều những ngôi sao cải lương, những vở cải lương tiêu biểu, ................................................................................................................

(6) Trcíh tập thơ Mở cửa – NXB Văn học 1969

thông thường những vở diễn trong hội diễn là nghệ thuật cao của các diễn viên so với tình hình chung, hoặc so với chính đoàn mình. Những vở diễn hội diễn luôn là sự đầu tư toàn diện, cấu trúc sân khấu, nghệ thuật diễn mang tính học thuật, sáng tạo đến khả năng tận cùng của mỗi diễn viên, mỗi đoàn để đi diễn thành công. Nghệ thuật diễn đổi mới từ những vở diễn phản ánh hiện thực mới, đổi mới ngôn ngữ hiện đại, nói đài từ xúc cảm nội tâm, đối thọai trực tiếp, xung đột giữa các nhân vật, ngôn ngữ hành động diễn mau lẹ cùng những sự kiện tiết tấu dồn nén từ chậm rãi đến cao trào hành động nhân vật. Các diễn viên cải lương Nam ngày càng đi sâu nghệ thuật ca diễn, năm 1993, Bach Tuyết một mình độc thoại với các hoài niệm trong vở Hoàng hậu hai vua – Lê Duy Hạnh, là dấu ấn đột phá nghệ thuật diễn hiện đại, kéo theo hàng loạt nghệ sĩ học tập lối diễn sâu sắc,hiện đại và dân tộc. Đến Hội diễn năm 2000, nghệ thuật diễn manh nha khuynh hướng cải lương pha vũ đạo hình thể như vở Dòng sông đỏ, lối diễn xung đột chính luận như vở Chuyện bên vỉa hè... Lớp trẻ sau này như Thoại Miêu, ThoạiMỹ, Thanh Thanh Tâm, Kim Tử Long, Phương Hồng Thuỷ, Ngọc Huyền, Vũ Linh, Phượng Hằng, Ngọc Tuyết, Mỹ Hằng, Phượng Loan, Tấn Giao, Vũ Luân... phần lớn đào tạo cơ bản tiếp thu nhanh, ca diễn nội tâm. Nghệ thuật diễn gắn liền với nghệ thuật đạo diễn, những nghệ sĩ gạo cội từ kịch nói nhảy sang cải lương, lớp đạo diễn cải lương lâu năm...

Những đạo diễn tài năng cao nghệ diễn đạo khoa học, học thuật, chú ý kỹ thuật diễn viên từng chi tiết hành động, tiếng nói lời thoại. Lớp đạo diễn cũ của sân khấu cải lương: Chi Lăng, Năm Châu, Đoàn Bá, Hùynh Nga, Mai Luận, Ngọc Dư, Ngọc Phương,Ngọc Dư... Lê Chức, Doãn Hoàng Giang, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trọng Nam, Giang Mạnh Hà... mang đến sân khấu cải lương nghệ thuật diễn mới, đổi bộ mặt cải lương, từ đạo cụ, phục trang đến mỹ thuật sân khấu. Nhiều vở diễn dù các đạo diễn dấu tên, mở màn ra biết ngay ai là đoạ diễn cho vở tham dự hội diễn. Mỗi vở cải lương là của đạo diễn, mang phong cách đạo diễn, Lê Chức sang trọng lịch lãm, học thuật, hơi lạnh, quá tỉnh trong cấu trúc các màn lớp, hoặc cầu toàn câu chữ, thích biểu đạt thơ ca tâm trạng tình người. Lê Hùng có một số vở cải lương hóm hỉnh, dân gian, nhưng lời nhạo hơi quá, chưa sang trọng. Doãn Hoàng Giang thích bục bệ, dây chằng, không gian sân khấu biến ảo khôn lường, ấn tượng, bí hiểm ma quái như vở Kẻ sĩ Thăng Long... Mỗi đạo diễn đem đến sân khấu một cá tính con người họ trên sân khấu cải lương là sân khấu của đạo diễn , chính họ làm thay đổi nghệ thuật cải lương. Lớp trẻ Trần Ngọc Giàu, Giang Mạnh Hà, Trọng Nam... đem đến những chi tiết diễn tỷ mỷ, tươi mới trẻ khoẻ hồn nhiên của sân khấu cải lương. Giang Mạnh Hà có nhiều sáng tạo trong đạo diễn chi tiết, xử lý đạo cụ tài tinh tế, một đạo diễn nhiều sáng tạo, suy nghĩ táo bạo, tài năng, nhưng tính tổng thể mảng khối chưa thật rõ nét, nếu ở các đoàn TW chắc nổi hơn nhiều.

Nghệ thuật đạo diễn, chắp cánh cho diễn viên bay cao, hành động là ngôn ngữ biết nói tinh tế, thay lời truyền cảm đến khán giả. Các đạo diễn đã đổi mới toàn diện sân khấu cải lương những năm kết thúc thế kỷ XX.



1.7.Âm nhạc, mỹ thuật.

a.Âm nhạc



Âm nhạc cải lương những vở tham dự hội diễn hầu hết là sáng tác nhạc rất cá biệt có vở ghép nhạc, hoặc hứng tác tại chỗ, hầu hết các hội diễn không có hiện tượng lồng ghép nhạc. Nhạc những vở diễn là sáng tác tiêu biểu về nội dung khí nhạc và những ca khúc tình cảm nhân vật, tình huống sân khấu.

 nhạc sân khấu cải lương chấm dứt tình trạng diễn tấu cho bài bản làm nhạc nền. Những đạon nhạc chuyển cảnh nặng về gây không khí ồn ào, chưa biểu cảm. Câu nhạc chưa thực sự là những mảng miêu tả ý tưởng vở diễn, chân dung nhân vật, so với mỹ thuật, âm nhạc ít sáng tạo, đổi mới. Không ít nhạc sĩ dậm chân tại chỗ, hình như viết để kiếm tiền, hoặc khả năng có hạn chỉ có thể sáng tạo đến thế. Qua các đợt hội diễn nhiều 30 – 40 vở, ít là 15 vở, chỉ tính những vở trong hội diễn có hàng trăm vở từ năm 1962 đến 2007, nhưng chưa ai nhớ một bài hát nào từ một vở cải lương, chưa ai thích một giai điệu khí nhạc nào từ tình huống sân khấu. Thông thường một vở cải lương ít có hai bài hát, nhiều tới 10 bài, thậm chí 19 bài trong một vở diễn, nhưng chẳng được bài nào. Có nhạc sĩ trong hội diễn viết nhạc từ 7 đến 13 vở, liệu có chất lượng? Trong khi nhiều nét giai điệu quen thuộc xuất hiện hết vở nọ qua vở kia. Nhạc sĩ viết cải lương không nhiều, lớp trước có Đắc Nhẫn, Văn Cận, Y Vân... lớp mới Vũ Ngọc Quang, Đỗ Hồng Quâm, Đức Minh, Phó Đức Phương, Quang Hải... Những người chuyên viết sân khấu cải lương ngoài Bắc chỉ có Vũ Ngọc Quang, trong Nam Y Vân, Quang Hải. Còn hầu hết là các nhạc sĩ ngoại đạo bất kể ai đều có viết nhạc cho cải lương như Hoàn Vân, Nguyễn Đình Phúc,Nguyễn Xuân Khoát, Đàm Linh... Trong Nam có hàng chục nhạc sĩ Lư Nhất Vũ, Thanh Tùng, Phạm Trọng Cầu, Bảo Phúc... âm nhạc cải lương trong hội diễn kết thúc thế kỷ, các đoàn có hai dàn nhạc tân cổ. Hai dàn nhạc ngồi riêng hai bên cánh gà, mỗi đoàn thường có từ 8 đến 10 nhạc công. Đoàn Quân khu IX, có dàn nhạc ít nhất: 1 thập lục, 1 ghi ta lõm, 1 violon, 1 organ. Những năm cuối thế kỷ, ca nhạc cải lương ca tân nhạc, đệm bằng dàn nhạc. Duy nhất có dàn nhạc Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang thuần khiết dàn nhạc dân tộc như muốn chơi trội, độc đáo, mặt khác trước sự phát riển tràn lan ca nhạc nhẹ, Hội đồng âm nhạc Châu á, uỷ ban Unétscô kêu gọi mọi người bảo vệ ca nhạc dân tộc. Đoàn cải lương nào giữ trọn dàn nhạc dân tộc là đúng hướng bảo tồn ca nhạc cải lương.

Dù trải qua nhiều năm hoà tấu dàn nhạc, nhiều dàn nhạc lên dây phô, có ca sĩ ca phô, chênh với dàn nhạc... Nghệ thuật ca phát triển cao kỹ thuật ca Vọng cổ ở một số nghệ sĩ như Thanh Tuấn ca Vọng cổ năm 2000 làm cả giới cải lương kính phục, kỹ thuật ca ngọt mùi, ly điệu, truyền hơi, cả đâm hơi như người làm xiếc trên dây mà không phô. Thật tài năng! Đó là những nghệ sĩ biệt tài, kỹ thuật ca thuộc các nghệ sĩ ngôi sao, Nhưng dàn nhạc hoà tấu chưa cao, chỉ có những tay đàn cá bịêt, kỹ thuật diễn tấu cao. Sự thiếu đồng bộ trong sáng tác, hoà tấu dàn nhạc là điểm yếu nhất cuả ca nhạc, dàn nhạc cải lương.

b.Mỹ thuật, phục trang.

Mỹ thuật cải lương phụ thuộc vào đạo diễn, phục vụ tư tưởng chủ đề vở diễn, các đạo diễn dổi mới sân khấu, từ đổi mới cấu trúc hình thức, nội dung kịch bản, sân khấu đã tiến xa. Mỹ thuật cải lương nhiều biến đổi tạo không gian sân khấu mới.

Mỹ thuật cải lương từng bước đổi mới hình thức trang trí sân khấu, mỹ thuật tả thực có tính truyền thống cải lương đến mỹ thuật hiện đại:

Tả thực ước lệ
Tả thực cách điệu
Ước lệ mảng khối.

Sân khấu Hội diễn 95 – 2000, ước lệ mảng khối, đặc bịêt sử dụng mầu sắc mảng khối mang nét chung cấu trúc sân khấu kịch nói, trừ những vở cải lương tả thực ước lệ của Phùng Huy Bính, Bùi Huy Hiếu, còn phần đông những vở cấu trúc mảng khối như kịch nói. Tại hội diễn sân khấu cải lương năm cuối thế kỷ có ba hình thức trang trí:

Trang trí tượng trưng
Trang trí tả thực
Trang trí ước lệ

Trang trí tượng trưng tìm hình ảnh điển hình của chủ đề vở diễn là hình thức kịch phương Tây, hoạ sĩ Phan Phan thực hiện qua vở Chuyện bên vỉa hè, Đoàn Cải lương Đồng Tháp. Tác giả đặt những cái thang i nốc cao thấp khác nhau như ước vọng tột cùng của mỗi con người vươn tới trời cao, mặt khác những chiếc thang lại gợi tả một công trường đang xây. Những chiếc bàn, phòng làm việc đều thanh nhã, thanh cao, một tấm bảng, là bức tường ngăn nội ngoại cảnh, xoay qua xoay lại đã biến đổi không gian. Hình thức trang trí này chỉ nhìn qua không gian sân khấu như kịch nói, sân khấu khô lạnh, chưa hợp với cải lương, nên không phát triển. Dù là trang trí tượng trưng nhưng vở Khúc Ly hương tạo ấn tượng đẹp, xoay chuyển không gian mau lẹ, có ý tưởng nhớ về cội nguồn dễ hiểu. Vở Kẻ sĩ Thăng Long cấu trúc bục gỗ như cái cầu, hai bên bậc thang, giữa lối đi vào trong sân khấu. Không gian biến dổi từ khối bục bệ cấu trúc mảng khối lúc biến thành hậu cung, khi đổi thành ngục thất, tạo đất diễn cho diễn viên. Một số vở trang trí mảng khối đường tròn như tấm gương bát quái âm dương, hoặc cắt nửa vầng trăng xoay qua, xoay lại thay đổi không gian như vòng đời luân chuyển... Mỹ thuật cải lương thay đổi, góp phần đổi mới sân khấu mang tính hiện đại có phần xa rời mỹ thuật truyền thống cải lương.

Phục trang hết bị kêu về mốt thời thượng lại rơi vào trung tính không biết thời nào, hoặc nhiều vở như Phùng Khắc Khoan có cảnh giống những cô gái làng chèo cùng ông lão chăn vịt, mầu sắc đầy chất chèo, mất đi hoá sắc cải lương.

Mỹ thuật cải lương đổi mới, có những thuận lợi, những hạn chế, đôi vở làm mất bản sắc sân khấu cải lương. Mỹ thuật cải lương tiếp tục đổi mới sang năm đầu thế kỷ còn mới lại hơn.



II.Sân khấu cải lương những năm đầu thế kỷ mới.

1.Sân khấu Hội diễn.



Trước sự giao lưu hội nhập nghệ thuật toàn cầu hoá, nghệ thuật hậu hiện đại, văn học, ca nhạc nhẹ Mỹ, tác động vào các nghành nghệ thuật Việt Nam. Sân khấu xưa nối với Trung Hoa, nga, nay chuyển sang Âu Mỹ, tiếp cận nền văn hoá, nghệ thuật Mỹ, sân khấu cải lương đổi mới. Những hé mở từ Hội diễn cải lương năm 2000, đến 2005 là con đường sáng tạo mới.

Hội diễn có 9 vở thuộc loại khá như Rồng phượng – Lê Duy Hạnh, Ngôi sao biển - Đình Kính, Lời tự tình quê hương - Đoàn Tây Đô, Tiếng thét nơi pháp trường - Đoàn Kiên Giang, Kỹ nữ Đông Quan – Nhà hát Cải lương Hà Nội, Cung đàn nào cho em – Nhóm Song Việt, Hữu Quốc, Xuân Đông Thu Hận - Đoàn Cải lương Đồng Tháp, Cội xưa – Nhà hát Cải lương Việt Nam... Vở Chuyện ấp cây bàng - Đoàn Cải lương Tây Ninh, còn yếu về cấu trúc kịch bản và nghệ thuật diễn. Những vở kể trên là đề tài cuộc sống mới, một vở đề tài lịch sử. Hội diễn có 21 đoàn, 21 vở, số diễn viên 343 người, không phải như các báo đưa tin là 1000 người. Tổng số 21 vở, có 4 vở đề tài lịch sử, một vở đề tài chiến tranh vở Dưới rặng dừa xanh - Đoàn Cải lương Bến Tre.

Số huy chương vàng chia đều cho mỗi đoàn một cái, một số Nhà hát được ba cái. Nhà hát Cải lương Việt Nam, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Ban tổ chức trao 24 huy chương vàng tặng cho các diễn viên, tổng số huy chương vàng 51 huy chương. Những con số trên thông tin về sự suy giảm giải thưởng, không còn “mưa” huy chương như nhiều đợt hội diễn trước, nhưng một sự bất đắc dĩ, huy chương chia đều cho các đoàn, đây là vì phong trào. Nếu không, có đoàn sau hội diễn lại bị cắt tài trợ, hoặc giải thể thì mất phong trào, mỗi hội diễn thật khó xử cho Ban giám khảo. Có hội diễn bị một số người quá khích doạ biểu tình, ném trứng thối vào Ban giám khảo. Tình hình sân khấu những năm cuối thế kỷ sang đầu thiên niên kỷ mới thật bất ổn. Kịch bản yếu, nhiều vở yếu về nội dung, cấu trúc lỏng lẻo, nhiều cốt truyện chưa nêu bật nhân vật chính... Nhưng hội diễn có những thành công, một số vở sáng tạo mới như Ngôi sao biển, Cội xưa, Xuân Đông Thử Hận.

Vở Xuân Đông Thu Hận, mới trong nghệ thuật diễn mang tính biểu cảm, có những mảng diễn xúc động, tạo hình đẹp hé mở sân khấu hình thể, nhưng có phần kịch nói hoá. Hội diễn có hai nhóm cải lương cổ phần: Thắp sáng niềm tin, và Hội ngộ tài năng. Nhóm Thắp sáng niềm tin vở Trái tim em nói thế, dung nạp nhiều hình thức nghệ thuật đương đại, ca nhạc nhẹ, nhảy ráp, hip hop, uống thuốc lắc, múa leo cột, đèn mầu nhấp nháy... vở diễn đầy ắp nóng bỏng những mô típ nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại, hấp dẫn tuổi trẻ... Nhưng Ban giám khảo không mặn mà. Vở Cội xưa Nhà hát Cải lương Việt Nam, đạo diễn, mỹ thuật tạo sân khấu mới. Vở diễn được Giám khảo ủng hộ. Tuy vậy trước và sau hội diễn đầy dư luận không hay bịa đặt về phát ngôn, tiêu cực phong bì... Qua đó không khí hội diễn 2000 – 2005, không đẹp, không phải là sân chơi fair play.

Âm nhạc cải lương không mới, Đoàn Cải lương Tây Ninh, vở diễn như văn nghệ xã, âm nhạc còn ứng tác tại chỗ bằng đàn organ đệm trực tiếp cho sân khấu, quả là chuẩn bị quá sơ sài. Các đoàn thường có hai dàn nhạc tân cổ, riêng Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang sử dụng một dàn nhạc dân tộc. Dàn nhạc cải lương cổ nhạc có đoàn lên dây chưa chuẩn hoà tấu bị phô, hát chênh, đó là thiếu tính chuyên nghiệp. Vào thời đại công nghệ, các nhạc công, nghệ sĩ phải chuyên nghiệp hoá, không cho phép phạm những lỗi coi là ít học. Âm nhạc cải lương về cổ nhạc,nhiều vở đậm chất dân ca và nhạc cải lương.

Mỹ thuật cải lương nhiều vở tả thực ước lệ, vở Cội xưa, hoạ sĩ Doãn Châu trang trí mới đưa nghệ thuật hậu hiện đại vào sân khấu cải lương.

Nghệ thuật hậu hiện đại ra đời vào năm 1960 ở sân khấu Mỹ, nghệ thuật kiến trúc, ca nhạc, nhưng tới những năm 70 phát triển sang các nước Châu Âu, năm 2000 vào nước ta trong giới hội hoạ. Sân khấu hậu hiện dại phát triển mạnh ở Mỹ, năm 2005 hoạ sĩ Doãn Châu trang trí nghệ thuật sắp đặt vào sân khấu cải lương là hướng cách tân sân khấu. Mỹ thuật cải lương sân khấu tại hội diễn 2005 có các hình thức:

Trang trí tả thực
Ước lệ
Nghệ thuật sắp đặt.

Mỹ thuật sân khấu cải lương đang bị kịch nói hoá, chỉ một số hoạ sĩ giữ lại mỹ thuật tả thực có tính truyền thống của sân khấu cải lương.

Hội diễn cải lương năm 2005, giảm sút về số diễn viên, số đoàn, số vở diễn, đặc biệt giảm sút về nội dung tác phẩm kịch, còn hai ba vở mang tính nghiệp dư, đây là điều các hội diễn không thể có.

Qua Hội diễn 2005, cần nâng cao chuyên nghiệp hoá các đoàn cải lương bằng cách:

Đổi mới sân khấu, trang bị kỹ thuật sân khâu.
Chuyên ngiệp hoá nghệ thuật diễn viên và nhạc công
Trả lại mỹ thuật sân khấu cải lương truyền thống.

Sân khấu cải lương trước xu thế hội nhập, xã hội hoá cần đổi mới tổ chức quản lý, có điều luật quản lý nghệ sĩ, để các đoàn rộng đường sáng tạo vở diễn đáp ứng công chúng.

2.Những sự kiện sân khấu.

Sân khấu cải lương có hai giải thưởng ở thành phố Hồ Chí Minh, lúc đầu chỉ có các đoàn cải lương thành phố tham diễn, giải tặng cho các diễn viên. Sau này lan tới các tỉnh đồng bằng, chưa có diễn viên Miền Bắc tham diễn. Riêng ca nhạc, nhiều diễn viên các tỉnh phía Bắc, Hà Nội vào thi giải thưởng của Đài truyền hình thành phố.

Giải thưởng các diễn viên cải lương thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hàng năm có 2 giải:

1.Giải Thanh Tâm ra đời năm 1957, tan rã năm 1965

2.Giải thưởng Trần Hữu Trang ra đời năm 1992, tiếp tục hấp dẫn diễn viên, đang là niềm tự hào của mọi người.

3.Năm 2006, tổ chức Liên hoan sân khấu Quốc tế, không có cải lương tham diễn, nhưng nó mang lại nhiều điều bổ ích cho sân khấu về nghệ thuật kịch hình thể đang thịnh hành trên thế giới.

4.Năm 2007, kỷ niệm 50 năm sân khấu Việt Nam, nghệ thuật cải lương tham diễn nhiều trích đoạn hay,nghiêm túc, học thuật. Dù là trích từ những vở tiêu biểu trong các hội diễn, nhưng qua những trích đoạn hay, tạo niềm tin ở sân khấu cải lương không bị hụt hẫng như sau hội diễn năm 2005.

5.Miền Nam thường xuyên tổ chức các hình thức thi đàn ca tài tử để cổ vũ diễn viên, phong trào ca diễn cải lương với các thương hiệu – Vầng trăng cổ nhạc, Đàn ca tài tử...

6.Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên có chương trình diễn cải lương suốt tuần, suốt năm, đó là thiết thực bảo tồn sân khấu cải lương tạo công chúng yêu thích cải lương.

7.Từ năm 2007, nhiều nhóm cải lương tiếp tục lưu diễn ở nước ngoài là điều xưa ít có, nay cải lương băng hình và các nhóm nghệ sĩ đi diễn ở nước ngoài là sự tự hào của giới cải lương.

8.Hội diễn sân khấu xã hội hoá cả nước lần đầu tiên taị thành phố Hồ Chí Minh tháng 10 – 2006, có 16 đoàn, 23 vở diễn, trong đó có 3 vở cải lương của các nhóm: Thắp sáng niềm tin, Vũ Luân, Câu lạc bộ cải lương thành phố với các vở Duyên kiếp – Song Việt, Giang sơn mỹ nhân – Bạch Mai, Nước mắt thân tình – Song Việt.

Tạm kết:

Lịch sử sân khấu cải lương hình thành từ một ban hát nhỏ bé đã trở thành một thể loại sân khấu phát triển tới mọi miền đất nước, hiện nay số đoàn cải lương còn

nhiều hơn kịch nói, là thế mạnh của nghệ thuật cải lương.

Dù trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi nghệ thuật cải lương phát triển trước hiện thực cuộc sống mới. Sân khấu cải lương đổi mơí, hội nhập các hình thức nghệ thuật mới, là nhịp cầu giao lưu hội nhập văn hoá toàn cầu, bảo vệ bản sắc nghệ thuật dân tộc. Sân khấu cải lương trước mỗi giai đoạn lịch sử có tác động thúc đẩy xã hội đổi mới, những vở diễn ngấm vào quần chúng trở thành sức mạnh động viên hàng triệu người làm chủ cuộc sống xây dựng xã hội tương lai. Quá trình phát triển cải lương tạo ra lực lượng diễn viên, nghệ sĩ, tác giả, đạo diễn hàng ngàn vở diễn đáp ứng công chúng. Trước tình hình xã hội hoá sân khấu cải lương Nam phát triển mạnh, sân khấu phía Bắc còn lạnh tanh chưa quen môi trường mới. Nhiều đoàn trưởng các đoàn cải lương Nam muốn phá bỏ bộ máy quản lý cũ, chuyển sang cổ phấn tư nhân hoá các đoàn cải lương, họ cho rằng quản lý như hiện nay thiếu năng động là gánh nặng cho Nhà nước. Các đoàn cải lương Bắc lại sợ bỏ bao cấp chuyển sang cổ phần, một số nhà máy, công ty như Công ty Kính Đáp cầu, nuốn mua lại đoàn quan họ, đoàn Kịch Bắc Ninh. Công ty Dược Bảo Long, ngỏ lời mua lại đoàn Cải lương Hoa Mai, các diẫn viên không đồng tình. Mỗi miền một hoạt động thực tiễn sân khấu, dẫn đến những chính kiến khác nhau, nhưng Nhà nước còn bao cấp đến 2010 cho tuồng chèo, cải lương. Những đoàn nghệ thuật khác phải cổ phần, tư nhân hoá là thiết thực xã hội hoá nghệ thuật trước kỷ nguyên toàn cầu hoá.

Sân khấu cải lương thời kỳ đổi mới từ phát triển rực rỡ đến tụt dốc, các đoàn tan rã dần sống dựa vào bao cấp Nhà nước. Riêng các đoàn phía Nam còn doanh thu cao, cải lương cần đổi mới bằng cách trở lại truyền thống. Cần đào tạo đội ngũ tác giả, diễn viên để cải lương phát triển theo hướng dân tộc hiện đại, góp phần xây dựng tình cảm con người xã hội hiện đại.

Viết ngày 15 – 9, hoàn thành ngày 15 – 11 – 2007

Vì nộp theo kế hoạch nên còn nhiều sai xót - xin cáo lỗi – tác giả.





Sách tham khảo



Việt Nam sử l­ợc – Trần Trọng Kim – NXB Đà Nẵng: 2003
Việt Nam sử l­ợc – Trần Trọng Kim quyển 1 – 2 NXB TP Hồ Chí Minh 1997
Lịch sử Việt Nam – UBKHXH Việt Nam – năm 1971
Đại Việt sử ký toàn th­ quyển 1 – 2 NXBKH xã hội: 1971
Lịc sử Việt Nam từ nguồn gốc… Phan Quang – Xuân Đán – NXB TPHCM: 2000
Lịc sử thế giới cổ đại – NXB Giáo dục năm: 2002
Lịch sử thế giới trung đại – NXB Giáo dục năm 2003
Lịch sử thế giới cận đại – NXB Giáo dục năm: 2001
Lịch sử thế giới hiện đại – NXB Giáo dục năm: 2000
Những sự kiện lịch sử thế giới… trung tâm khoa học xã hội và nhân văn: 2002
Lịch sử âm nhạc Việt Nam – Viện âm nhạc và múa: 1995
Giáo trình lịch sử – Tr­ờng trung học l­u trữ: 1996
Lịch sử văn minh thế giới – nhiều tác giả - NXB Giáo dục: 2007
Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến 1998 – Trần Bá Đệ: 1999
Lịch sử báo chí Việt Nam từ năm 1865 đến 1945 - Đại học quốc gia: 2001
Lịch sử xã hội học – Thanh Lê – NXB Khoa học xã hội: 2002
Giáo trình xã hội học - Đại học kinh tế quốc dân – NXB Lao động: 2002
Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang Ngọc – NXB Giáo dục: 2001
Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1884 – Nguyễn Phan Quang, Xuân Đàn – NXB TPHCM: 2000
Lịch sử đại c­ơng - ĐHSP + ĐHQG – NXB Giáo dục: 1997
Việt Nam văn hoá sử c­ơng – Trần Trọng Kim – NXB Văn hoá: 2000
Lịch sử Hà Nội – NXB Hà Nội: 2004
Hùng V­ơng dung n­ớc NXB KHXH: 1974
Lịch sử văn minh nhân loại – Vũ D­ơng Hinh chủ biên – NXB Giáo dục: 1997
Lịch sử t­ t­ởng Việt Nam NXB ĐHQG HN: 2000
Niên biểu Việt Nam – Vụ bảo tàng: 1999
Lịch sử kinh tế các n­ớc – NXB Tài chính: 1998
Lịch sử các t­ t­ởng kinh tế – Phân viện Hà Nội: 1998
Lịch sử các học thuyết kinh tế thế giới – NXB Đà Nẵng
Lý thuyết kinh tế – NXB Tài chính: 2000
Kinh tế vĩ mô - NXB Thống kê: 2002
Kinh tế vi mô - NXB Thống kê
Lịch sử các học thuyết kinh tế – NXB Giáo dục: 1999
Nghệ thuật sân khấu Việt Nam – Trần Quang Khải – NXB Khai trí: 1966
Hồi ký 50 năm mê hát – V­ơng Hồng Sến – NXB Phạm Quang Khải: 1966
Kịch hát truyền thống Tât Thắng.. NXB Sân khấu: 1993
Sân khấu cải l­ơng Nam Bộ - Đỗ Dũng – NXB Trẻ: 2003
Nghệ thuật cải l­ơng những trang sử – Ch­ơng Bỉnh Tòng – VSK: 1997
Trí tuệ nhân tạo – nhiều tác giả - NXB thống kê: 2003
Lôgic học – Tr­ờng Cao đẳng s­ phạm thành phố Hồ Chí Minh
Lôgic học – Ngữ nghĩa – NXB Đại học: 1987
Lôgic học – Tiếng Việt – NXB Giáo dục: 1996
Mỹ học Falkor – Guxep – Nhà xuất bản Đà Nẵng: 1999
Điển hình hoá trong nghệ thuật - ADREMOP – Văn hoá nghệ thuật: 1994
Hình t­ợng nghệ thuật – ADREMOP - Văn hoá nghệ thuật: 1993
Tuyển tập PROPP – Nhà xuất bản văn hoá dân tộc: 2003
Hình thái của nghệ thuật – CaGan (Phan Ngọc dịch) NXB Hội nhà văn: 2004
Xã hội học – nhiều tác giả - NXB Giáo dục: 1999
Xã hội học – NXB Tài chính: 1996
Chủ nghĩa xã hội khoa học – NXB Chính trị quốc gia: 2005
Xã hội học và nhân văn – NXB Khoa học xã hội: 1996
Từ điển xã hội học – Nguyễn Khắc Viện – NXB Hà Nội: 1994
Nghiên cứu con ng­ời – Viện nghiên cứu con ng­ời: 2002 – 2003: 10 quyển
Từ mới tiếng việt – NXB TP Hồ Chí Minh: 2003
Từ điển tiếng việt - NXB Giáo dục: 2001
Từ điển tiếng việt - NXB Đà Nẵng: 2005
Từ điển Anh việt – NXB Long An: 1998
Từ điển Anh việt – NXB Thanh Hoá: 1998
Tiếng Việt thông dụng – NXB Trẻ: 1997
Âm thanh từ trái tim – Hà ánh Minh – NXB Văn hoá thông tin: 2000
Thanh âm điệu thức âm nhạc... Việt Nam Tô Vũ, Thế Bảo... NXB Viện Văn hoá nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh: 1993
Âm thanh lập thể – Trần Công Chí – NXB KH và KT: 1999
Thang âm cải l­ơng tài tử – Vũ Nhật Thăng – Viện âm nhạc: 1998
30 năm ca khúc Vịêt Nam 1975 – 2005 – NXB Âm nhạc: 2005
Âm nhạc mới Việt Nam – Viện Âm nhạc: 2000
Bài ca đất n­ớc – ca khúc – hợp x­ớng – NXB Âm nhạc: 2005
10 tập Thế giới âm nhạc – NXB Trẻ
Ph­ơng pháp luyện giọng – Pec kham – NXB Âm nhạc: 2003
Hoà tấu biến hoá lòng bản – Hoàn Đạm – Viện Âm nhạc: 2003
Lý luận kịch ARistot đễn LESSIN – Tất Thắng dịch NXB Văn học: 2003
Tình cha – tuyển tập ca cổ hay – NXB Âm nhạc: 2004
Niên giám văn nghệ sĩ – Việt Nam cộng hoà - Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá xuất bản: 1970
Tổng tập báo Văn hoá 1980 – 1995
Bàn về văn học nghệ thuật – Lê Nin – NXB Sự thật Hà Nội 1960
Bản sắc Văn hoá Dân tộc – NXB Văn hoá Dân tộc: 1960
Kho tàng diễn x­ớng dân gian Việt Nam – Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo – NXB Văn hoá 1997
Nhân vật truyện cổ tích hoang đ­ờng nguồn gốc của hình t­ợng – Melentinski – NXB Matxcơ va: 1958
Thần thoại trong lịch sử – Lokep – NXB Matxcơ va: 1957
Không gian xã hội vùng Đông Nam á - Côngđôminas – NXB Văn hoá: 1997





Mục lục



Mở đầu:

Chương I: Sự hình thành, ra đời sân khấu cải lương

Chương II: Sự phát triển sân khấu cải lương

Chương III: Cao trào sân khấu cải lương

Chương IV: Sân khấu cải lương từ 1945 đến 1965

Chương V: Sân khấu cải lương từ 1965 đến 1985

Chương VI: Sân khấu cải lương từ 1965 đến 2007


Nhận xét

Bài phổ biến

Tiểu Sử Tấn Giao

Tiểu Sử Hữu Lợi

Tiểu Sử Vương Linh

Tiểu Sử Hà Mỹ Xuân

Tiểu Sử Ngọc Bích

Té ngã vỡ mạch máu não, nghệ sĩ Thanh Thế nguy kịch

Tiểu Sử Ngân Tuấn

Tiểu Sử Xuân Yến

Tiểu Sử Kép Độc Trường Xuân

Phân biệt đờn ca tài tử với cải lương