Quá trình hình thành và phát triển nhạc lễ Phật giáo ở Nam bộ
Quá trình hình thành và phát triển nhạc lễ Phật giáo ở Nam bộ
(PGVN)
Những ngôi chùa đầu tiên trên vùng đất mới như Vạn An,
Hộ Quốc, Long Thiền, Đại Giác, Kim Cang… ở Đông Nam bộ; Khải Tường, Từ
Ân, Giác Lâm ở Gia Định; Tam Bảo ở Hà Tiên…
Những ngôi chùa đầu tiên trên vùng đất mới như Vạn An,
Hộ Quốc, Long Thiền, Đại Giác, Kim Cang… ở Đông Nam bộ; Khải Tường, Từ
Ân, Giác Lâm ở Gia Định; Tam Bảo ở Hà Tiên…
1. Khái quát về tình hình Phật giáo Nam bộ thời các chúa Nguyễn
Phật giáo vào Việt Nam khá sớm. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết từ giữa thế kỷ I, trung tâm Luy Lâu đã
hình thành với sự có mặt của những thương nhân Ấn Độ. Một số thiền sư Ấn
Độ đã tham gia vào những thuyền buôn này để đến Giao Châu. Thời Sĩ
Nhiếp (207) đã thắp hương và dùng lễ nhạc ở Giao Châu “Sửa lòng người
bằng lễ nhạc”(1). “Các nghiên cứu đặc biệt về vai trò của Thiền sư Tăng
Hội trong giai đoạn này cụ thể hóa việc có mặt của đạo Phật ở nước ta
rất sớm (…)
Ngài đã học và đọc tụng kinh điển Phật
giáo tại Giao Châu trước khi truyền đạo và đưa âm nhạc Phật giáo Việt
lên phía Nam Trung Hoa mà Hán ngữ gọi là Phạn bối, tức phong xướng tụng
(bối= banna) có nguồn gốc từ phạn ngữ Phật giáo(2) “Có thể căn cứ vào
nhiều tư liệu quý hiếm như Cao tăng truỵên (của Huệ Hạo), Hậu Hán thư
hay Giao Châu ký đã xác định về sự hình thành âm nhạc Phật giáo thời
ấy”(3). Như vậy, ngay từ buổi đầu du nhập, Phật giáo Việt Nam đã tiếp
nhận và hình thành nhiều hệ phái Phật giáo, trong đó tư tưởng của Phật
giáo Bắc tông (Mahayana) dễ dàng được đón nhận và hội nhập nhanh chóng
vào xã hội Việt Nam. Theo dòng thời gian, các thiền sư Trung Hoa thuộc
tông Lâm Tế và Tào Động đã sang kinh đô Huế truyền đạo.
Khi du nhập vào vùng đất mới, đạo Phật
đã có những tiền đề lịch sử - xã hội cho sự phát triển của mình. Những
ngôi chùa đầu tiên trên vùng đất mới như Vạn An, Hộ Quốc, Long Thiền,
Đại Giác, Kim Cang… ở Đông Nam bộ; Khải Tường, Từ Ân, Giác Lâm ở Gia
Định; Tam Bảo ở Hà Tiên… là những ngôi chùa theo các hệ phái Bắc tông.
Các thiền sư Trung Hoa đã đến Nam bộ vào thế kỷ XVII như Khoáng Viên
(đời thứ 32 tông Lâm Tế), Nguyên Thiều (đời thứ 33 tông Lâm Tế). Các
thiền sư Việt Nam kế truyền vào thế kỷ XVIII, XIX như Liễu Quán (đời thứ
35 tông Lâm Tế), Phật Ý (đời thứ 35 tông Lâm Tế), Tổ Tông (đời thứ 36
tông Lâm Tế), Hải Tịnh (đời thứ 37 tông Lâm Tế)…Từ trong những ngôi chùa
đầu tiên này và với sự hoằng hóa của các thiền sư, nhạc lễ Phật giáo
lại được tiếp tục phát huy qua các buổi lễ cúng, các đại trai đàn.
Ảnh minh họa Nguồn: Internet |
Là vùng đất được hình thành muộn trong
cả nước, Nam bộ là địa bàn phát sinh và phát triển của nhiều tôn giáo.
Phật giáo là tôn giáo chủ đạo, có mặt sớm ở Việt Nam và cũng là hành
trang theo đoàn di dân vào vùng đất mới hơn 300 năm qua. Trong các hoạt
động của Phật giáo, nghi lễ chiếm vai trò quan trọng. Nghiên cứu về con
người và những họat động của con người, E. Adamson Hoebel cho biết:
“Nghi thức là sự cử hành theo định kỳ một lọat những hành động về lòng
tin, mà những hành động này cần phải giữ đúng tình trạng nguyên thủy,
hoặc nhằm đạt đến một mục đích riêng biệt nào đó. Lễ nghi là một phức
hợp gồm nhiều nghi thức”(4)
Tìm hiểu nghi lễ, trong đó có nhạc lễ
Phật giáo không thể không nghiên cứu chuỗi thời gian có quan hệ với các
sự kiện, gắn liền trong quá trình phát triển xã hội Nam bộ. Đó là những
giai đoạn riêng biệt của quá trình xã hội mà các nhóm người điều chỉnh
để phù hợp với những thay đổi bên trong và thích ứng với môi trường bên
ngoài. Victor Turner cũng nhận xét: “Nghi lễ là hành vi được quy định có
tính chất nghi thức dành cho những dịp, không liên quan đến các công
việc có tính chất kỹ thuật hàng ngày, mà có quan hệ với các niềm tin vào
đấng tối cao hay các sức mạnh thần bí”(5).
Bất cứ một tôn giáo nào đều phải có
những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh thần đạo vị của mình. Tìm hiểu
nghi lễ Phật giáo Nam bộ cũng không thể không nhắc đến lễ nhạc Phật
giáo. Đó là một bộ phận quan trọng tạo nên tính đặc thù so với nghi thức
cúng tế ở phía Bắc và miền Trung, và cũng là dấu ấn có liên quan đến
quá trình nhập cư, khai hoang và mở đất ở Nam bộ. Nghi lễ, trong đó có
lễ nhạc Phật giáo Nam bộ, chủ yếu nhằm phục vụ cho hai nhu cầu quan
trọng nhất của lưu dân: đó là lễ cầu an và cầu siêu (6)
Mỗi khi hành lễ, muốn được điều hoà âm
thanh nhịp nhàng trầm bổng để tăng phần trang nghiêm và linh cảm cần
phải có những pháp khí để làm phương tiện hỗ tương trong những khóa
lễ.(7)
2. Nhạc lễ Phật giáo ở Nam bộ trong tiến trình lịch sử
Thời Đức Phật còn tại thế, âm nhạc chỉ
phù hợp cho người phật tử tại gia. Đối với tăng đoàn, âm nhạc được xem
là không phù hợp lắm, “vì nó thường gợi lên những tình cảm bi lụy, quyến
luyến, làm xáo động tâm thức và gây ra nhiều trở ngại cho sự thăng hoa
của tâm linh. Mỗi khi tụ hội và ôn lại những lời dạy của đức Phật, chư
vị tỳ kheo chỉ tụng theo ngữ điệu thông thường, không có nhạc cụ, và dĩ
nhiên cũng không tán tụng du dương như thời nay ”(8).
Nghi lễ Phật giáo Nam bộ phản ánh
khuynh hướng văn hoá - nghệ thuật đương thời. Do tính chất “tùy
thuận/khế lý, khế cơ” của Phật giáo mà từ buổi đầu du nhập vào Nam bộ,
Phật giáo đã nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh của vùng đất mới, hình
thành những hình thức tán, tụng mang màu sắc riêng biệt. Bài bản dành
cho nghi lễ Phật giáo gồm các dạng kinh, kệ, chú, niệm, đọc, hô, bạch,
tụng, xướng, thỉnh, tán, niệm hương, đọc sớ, hô kệ, thỉnh linh…Tuy
nhiên, đỉnh điểm của lễ nhạc Phật giáo vẫn là “tán”. Khí nhạc thường
được sử dụng trong những buổi lễ lớn.
Không phải ngẫu nhiên GS.TS. Nhạc sĩ
Trần Văn Khê, trong nhiều buổi nói chuyện về âm nhạc Phật giáo Việt Nam
đã luôn nhấn manh đến tính chất địa -văn hóa của vùng đất Nam bộ và nêu
ra những thang âm, điệu thức mang tính tổng hợp cao trong âm nhạc Phật
giáo, dung hòa hai thái cực trong tình cảm con người. Đó là tính bi và
tính hài. Tính chất này đã thể hiện rõ nét trong nhạc lễ qua điệu Thiền
và điệu xuân.
“Mặc dù đạo Phật thành lập từ Ấn Độ,
mặc dù một số kinh chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á, nét
nhạc trong các bài tụng, tán trong truyền thống Việt Nam không chịu ảnh
hưởng của Ấn Độ hay Trung Quốc (…) Nhạc Phật giáo là một lọai thanh
nhạc. Khí nhạc Phật giáo chỉ để phụ họa cho lời tán, tụng (…). Cách tán,
tụng trong truyền thống Phật giáo Việt Nam rất gần với cách tán, tụng
các nước trong phái Bắc tông (…) Trong nước Việt Nam, nét nhạc của các
bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm điệu thức
dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát
ru, những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng”(9)
Ở Nam bộ, trong hai thế kỷ XVII và
XVIII, nhạc lễ Phật giáo gắn với hình thức diễn xướng các bài kinh,
tụng, tán (10) Phật bằng chữ Hán - Việt. Hình thức tán tụng ngân nga
từng chữ được ưa chuộng, được xem là trang trọng. “Mỗi miền đều có giai
điệu đặc thù theo giọng nói địa phương. Nếu không thuộc trước đọan kinh,
chúng ta sẽ không biết người kia tụng tán cái gì” (11). “Khi tụng một
bài kinh, thanh giọng mỗi chữ không thay đổi, thang âm chính phù hợp với
thang âm của âm nhạc dân gian Việt Nam (ngũ âm). Bài tán là khen ngợi
nên giọng đọc kéo dài, nhịp thay đổi, mỗi chữ có nhiều giọng. Trong lễ
cầu siêu (cúng vong) thường sử dụng lối Nam Ai, vì lối này dùng cho
những bài buồn” (12).
Nét tương đồng trong nhận thức về cái
đẹp, về lòng từ bi, tính khoan dung độ lượng trong giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc, đã dễ dàng hội nhập vào nghi lễ Phật giáo để
từ đó được nhập làm một, hoà vào với nghệ thuật biểu diễn dân gian đến
mức độ khó tách biệt, để cùng tồn tại, duy trì và phát huy nét đẹp ấy
cho đời sau.
Trong nghi thức cầu siêu cho các vong
linh, tại các ngôi chùa cổ thường sử dụng hình thức ứng phú. “Ứng phú là
môn kinh hành sự trong chùa, là môn âm nhạc riêng trong đạo. Khi hành
lễ, chư tăng tụng kinh, tán xướng. Ứng phú thường sử dụng lối “tán” (mục
đích khen ngợi, với giọng đọc kéo dài, thang âm cẩn thận, nhịp rất phức
tạp). Nội dung cúng là cầu siêu cho người chết hay cúng vong linh. Nhìn
chung, lối cúng ứng phú này rất gần với âm nhạc cổ truyền Việt Nam,
trong đó có ảnh hưởng của hát Hồ Quảng (Trung Quốc). Khi hành lễ, khoa
ứng phú thường sử dụng rất nhiều pháp khí như chuông, trống, mõ, đồng
la, đẩu, linh, khánh, còi, thủ lư, thủ/phủ xích…(13). Có thể nói, ứng
phú là hình thức sinh hoạt Phật giáo chủ yếu của người Việt ở Nam bộ
giai đọan đầu khai hoang mở đất.
Ứng phú gồm rất nhiều khoa: Công văn,
Nghinh, Phát lược, Tịnh Trù, Trí Linh, Cấp Thủy, Trình thập chúng, Môn
sơn Thí thực, Du Già… được ghi lại trên 20 quyển sách dịch từ chữ Hán.
Đa số các chùa có thực hành ứng phú đều sử dụng sách “Du già yếu tập thí
quỷ thực nghi”, nguyên bản của Vạn Thế đại sư, in năm 1606. Kết hợp các
khoa, một lễ cúng phải kéo dài 36 giờ, do ban kinh sư chịu trách nhiệm
tổ chức. Mỗi buổi lễ cúng, tùy tính chất to nhỏ mà có thể có từ 7 thầy
cúng trở lên, có sám chủ (thầy cả) đứng đầu, theo sau là duy na (đánh
chuông), duyệt chúng (gỏ mõ) và cặp vĩ (đẩu, trống).
Ở Nam bộ, những buổi cúng thí thực cô
hồn được gọi là ngồi giàn. Các buổi lễ cúng lớn đều áp dụng theo nghi
Đại khoa (Du già). Tại những buổi lễ cầu siêu lớn, tổ chức tại nhà phật
tử, ban kinh sư khi đi cúng thường mang theo bộ sám bài. Ở Nam bộ, sau
khi cúng còn có hát bộ/bội, nên có câu: “Trong chay, ngoài bộ”. Huỳnh
Tịnh Paulus Của đã định nghĩa: “Trong chay ngoài bộ” là cuộc bày trong
ăn đồ lạt, làm việc sám hối; ngoài bày chuyện vui chơi ca hát.(14)
Các thầy cúng cũng “dội mặt” (hoá
trang) làm Mục Liên, Thanh Đề, hát bội các bài Ông Đổng (15) đi tu,
Nguyệt Kiểu đi tu, Quan Âm giáng thế, Mục Liên tầm mẫu… Một buổi lễ cúng
cầu an hoặc cầu siêu tại nhà phật tử như vậy chi phí cúng rất cao, gồm
tiền cúng dường chư tăng, tiền bồi dưỡng thầy cúng, tiền bao giàn hát
bộ, nên những người tương đối giàu mới dám tổ chức. Một đám cúng kinh
đàn lớn nhất chi phí khoảng 20 đồng, mà vào thời điểm ấy 1 đồng mua
được 3 giạ lúa (16).
Mặc dù ở những giai đọan tiếp sau, do
điều kiện xã hội và môi trường sống có khác, khoa “ứng phú đạo tràng”
không còn chiếm vị trí chủ đạo, nhưng nó đã trở thành một hình thức sinh
họat văn hóa dân gian Phật giáo ở Nam bộ. Dần dần qua quá trình thực
hiện ứng phú, một số không nhỏ các tăng sĩ đã trở thành những “Thầy cúng
đám” thuần túy. “Xét cho cùng, ứng phú tồn tại và phát triển được một
phần chính là từ trong âm hưởng của tiếng kinh đọc tụng, khi trầm, khi
bổng, khi thâm u trầm lắng, gợi nhớ, gợi thương, như thiết tha cầu
nguyện. Điều đó đã giải tỏa được phần lớn những nỗi niềm thương nhớ vì
xa quê, cách tổ của lưu dân và một phần lớn hơn đã đi vào âm điệu của
tình tự dân tộc (17).
Ảnh minh họa Nguồn: Internet |
Nguồn gốc của trang phục trong lễ nhạc
cúng vong phổ biến ở Nam bộ xuất phát từ đời nhà Tống Trung Quốc. Phái
Thanh Y giỏi phù phép nên mượn hình thức chữa bệnh vào chùa tập hợp để
chống triều đình. Khi du nhập vào Việt Nam, ứng phú thịnh hành ở miền
Bắc hơn 300 năm. Đến cuối thế kỷ XVIII, hát bội đã phát triển đến một
mức độ đáng kể, vì vậy khoa ứng phú cũng song hành với nhạc lễ Phật giáo
phục vụ các lễ nghi cúng cầu an và cầu siêu (18) tại vùng đất mới với
trang phục áo hậu màu xanh ngọc thạch; cổ và tay áo viền đỏ; nền vải
thường có hình lá cây.
Tại miền Trung, ứng phú phát triển
giai đoạn Pháp xâm lược. Sách Đại Nam thực lục chính biên cho biết, giữa
thế kỷ XIX (1854-1858) vua đã chiếu dụ cho biên chép, đóng tập các bài
tán, tụng: “Quản viện Hàn Lâm là Phạm Hữu Nghị tâu xin kiểm xét các bài
sách, mệnh, chiếu, cáo, tiên, biểu, thư, sớ, bi, ký, và tờ lộ bố cùng
là các thể tán, tụng, tự, bạt, do các quan nghĩ sọan, thuộc về bản triều
từ năm Gia Long nguyên niên đến năm Thiệu Trị thứ 7, chọn lấy bài nào
hơn cả, chia từng môn, định từng loại, biên chép đóng thành tập, nhan đề
là “ Đại Nam văn tuyển thống biên” để điển chương của thịnh triều có
thể lưu lại về sau mãi mãi. Vua cho là phải, dụ sai Nghi Thân trông coi
việc ấy, chuyên giao cho thuộc viên viện ấy, chia đến các Bộ, Viện, Các,
Quán, các Nha xét kiểm để làm (ngoài các nơi ấy ra, các danh gia có
chứa riêng được bản nào, mà có thể dùng được, cũng chuẩn cho sao chép
cả). Về sau, thống biên chép xong, cộng 76 quyển (còn chưa khắc in),
thông tin chọn được 1.421 bài (trong đó có 62 bài chép phụ và chép sót)”
(19)
Vào miền Nam, tinh thần ứng phú đặt
nặng vào yêu cầu cần có thầy cầu an và cầu siêu và có tiền sinh sống nhờ
vào cúng tế này. Ứng phú thực sự đi vào hoạt động có tổ chức từ năm
1850 với trung tâm đào tạo là chùa Giác Viên ở Gia Định, do Thiền sư Hải
Tịnh khai mở. Từ trung tâm này, dần phát triển sang các vùng thuộc Đông
Nam bộ như chùa Phước Thạnh (Bàu Lớn-Trảng Bàng) có Thầy Mười dạy khoa
Ứng Phú đạo tràng và ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, thông qua các
ứng phú sư được đào tạo ở Gia Định. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nổi bật
nhất có Thiền sư Nguyệt Chiếu, người đã có công tập họp các bài nhạc lễ
Phật giáo, làm nền tảng cho lễ nhạc Phật giáo giai đoạn sau khi hình
thức ứng phú dần bị đi vào quên lãng.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay còn
khá nhiều ứng phú sư nổi tiếng như thầy Từ Thiện, Từ Tâm, Huệ Thanh, Từ
Tánh, Phước Quang (chùa Giác Lâm); Lệ Trang (chùa Định Thành)… Các chùa
Tứ Phước (quận 11); Từ Thoàn (quận 8) cũng thực hành ứng phú cho đến sau
năm 1975. Âm điệu của ứng phú thể hiện 7 điệu: Hỉ, nộ, ái, ố, ai, dục,
lạc. Theo nhận xét của HT.Thích Huệ Thành (chùa Long Thiền–Đồng Nai) thì
“nhạc lễ ứng phú có “Quy cũ bất đồng”, mỗi nơi đều có âm điệu khác
nhau. Ở miền Trung, ứng phú mang âm điệu giống của Trung Quốc, đặc biệt
nhất là tại Huế”.
Trong giai đọan chấn hưng Phật giáo
đầu thế kỷ XX, “các hòa thượng mở trường Phật học, chỉnh đổi một số nghi
thức để cho nhiều người có thể tiếp cận với giáo lý đạo Phật (..) Lúc
này các bài kinh được tụng theo một lối cách điệu gần với âm nhạc dân
gian địa phương. Giọng tụng Huế gần với hò Huế - giọng tụng Sài Gòn gần
với vọng cổ” (20).
Từ giai đoạn này, ứng phú với hình
thức diễn xướng nghệ thuật dân gian là hát bội đã dần mai một. Đến năm
1952, Hòa thượng Tăng trưởng Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam ra
lệnh cấm tu sĩ không được lên sàn diễn, không được hóa trang… nên việc
tăng sĩ diễn tuồng dần dần đã không còn tiếp tục nữa.
Tỉnh Bạc Liêu đầu thế kỷ XX có Thiền
sư Nguyệt Chiếu (1882-1947) xuất gia theo phái Thiên Thai Giáo Quán
tông, được đặt pháp danh là Đạt Bảo, pháp tự là Nguyệt Chiếu. Thầy cầu
pháp của thiền sư này vốn là người am hiểu về nhạc lễ. Trong thời gian
sống tu tại nhiều ngôi chùa, đặc biệt là Vĩnh Phước An (phường 2-thị xã
Bạc Liêu) và Vĩnh Đức (phường 1-thị xã Bạc Liêu), thiền sư có nhiều cơ
hội để quen biết và trao đổi về nhạc lễ cổ truyền Nam bộ với nhiều nhạc
sĩ nổi tiếng như Nhạc Khị, người có công tu chỉnh, hiệu đính, canh tân
cổ nhạc. Sau đó, thiền sư còn nhận công việc đào tạo cho đội nhạc công
của chùa An Thạnh Linh (xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu) nên mối
quan hệ ảnh hưởng của ca cổ vào hình thức nhạc lễ Phật giáo càng rõ nét,
đặc biệt là tại tỉnh Bạc Liêu, nơi xuất phát bài ca cổ nổi tiếng: Dạ cổ
hòai lang của Cao Văn Lầu.
Cũng cần nhận thấy mối quan hệ cộng cư
của các tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long, trong đó ngoài cộng đồng
người Kinh theo đạo Phật, còn có người Hoa. Khi hành lễ, người Hoa đọc
kinh tụng bằng ngôn ngữ địa phương, sử dụng nhiều pháp khí. Vì vậy,
trong nhạc lễ Phật giáo giai đọan đầu thế kỷ XX về sau ở Nam bộ, còn có
thể thấy ảnh hưởng của thang âm, điệu thức của lối hát Hồ Quảng.
Sau ngày thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam (1981) họat động Phật giáo có nhiều chuyển đổi cho phù hợp với
xu thế mới của đất nước. Ban Nghi lễ Trung ương đã nhận xét: “Nghi lễ
hàm ẩn nhiều yếu tố tích cực đưa đến chân, thiện, mỹ. Nếu nhìn nghi lễ
dưới góc độ giải thoát thì nó truyền đạt những diệu nghĩa, những tinh
hoa Phật học rất cô đọng và súc tích qua những pháp ngữ, tán tụng, sớ
văn (…) do tính đặc thù của lịch sử từng vùng, miền, sự biệt truyền của
tông môn hệ phái, vì thế Ban nghi lễ luôn luôn thận trọng không thể một
sớm một chiều mà đi đến thống nhất toàn bộ” (21). Đánh giá cách tụng,
tán trong nhạc lễ Phật giáo hiện nay, GS.Trần Văn Khê cho biết: “Cách
tụng, tán trong Phật giáo Việt Nam ngày nay có xu hướng đi đến chỗ giản
dị hóa.” (22)
Tóm lại, có thể nhận thấy trong quá trình phát triển, nhạc lễ ở Nam bộ mang một số đặc điểm sau:
-Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Nam bộ
nói riêng mang tính phong phú, đa dạng trong thành phần hệ phái, dòng
phái. Nam bộ cũng là địa bàn cộng cư đa dân tộc. Từ những tiền đề này đã
đưa đến tính dung hợp cao về văn hóa. Trong hình thức nhạc lễ của Phật
giáo, hệ phái Bắc tông thể hiện rõ nét nhất tính dung hợp và hội nhập
này.
-Lễ nhạc Phật giáo, là một phần của âm
nhạc truyền thống Việt Nam, diễn ra trong các ngôi chùa thuộc hệ phái
Bắc tông cho thấy tiến trình dân tộc hóa trong nhạc lễ phật giáo. Dù cho
có những yếu tố mang âm hưởng của lối hát Hồ Quảng, có những màu sắc
trong trang phục có nét tương đồng của phái Thanh Y đời Tống… Nhưng trên
hết, cội nguồn của dòng nhạc lễ Phật giáo vẫn thể hiện tính dân gian
Việt Nam. Từ thang âm, điệu thức của tụng, tán…khi xướng lên vẫn không
cho phép ta lầm lẫn với bất kỳ lối hát nào, đặc biệt là ở giai đọan ca
cổ đã phát triển.
-Lễ nhạc Phật giáo, trong đó tán, tụng
là chủ yếu, mang tính phong phú, đa dạng. Mỗi thời cúng trong ngày đều
có những bài tán, tụng riêng. Cúng khai kinh có trì chú Mật tông (chú
Phổ Am, Lăng Nghiêm…). Cúng Tịnh độ buổi tối có chú Vãng Sanh; cúng Mông
sơn thí thực, buổi chiều có chú chẩn tế cô hồn.
-Lễ nhạc Phật giáo Nam bộ chuyển đổi
theo sự biến đổi của văn hóa - nghệ thuật, diễn xướng dân gian của từng
giai đoạn lịch sử. Từ hình thức ứng phú nặng ảnh hưởng của hát bội ở thế
kỷ XVII-XVIII, đến hình thức tán, tụng mang âm hưởng cải lương, có chất
Hồ Quảng trong diễn xướng của người Hoa. Chính những nét giao lưu văn
hoá trong lễ nhạc Phật giáo đã chứng minh và mang lại dấu ấn đặc thù cho
Nam bộ, trên nhiều lĩnh vực, trong đó bộc lộ đặc trưng quan trọng của
văn hóa vùng, từ tính chất đa dân tộc và đa tôn giáo nơi vùng đất cuối
cùng của tổ quốc.
Tiến sĩ Trần Hồng Liên
Chú thích:
[[1]] Đại Việt sử ký tòan thư. 1998. tập I. Hà Nội. Nxb KHXH. Tr. 119.
[2.]Nguyễn Thuyết Phong 2006. Tiến
trình dân tộc hóa lễ nhạc Phật giáo tại Việt Nam. Văn hóa Phật giáo số
23, tháng 12. Tr. 16.
[3.] Lê Mạnh Thát 2001.Lịch sử âm
nhạc Việt Nam từ thời Hùng Vương đến thời Lý Nam Đế. Tp.HCM. Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh. Tr.241.
[4.] E. Adamson Hoebel. 2007. Nhaân
chủng học khoa học về con người. ( Anthropology : The study of man) Lê
Sơn, Lê Trọng nghĩa, Phạm Khương dịch. Tp.HCM. Nxb Tổng hợp TP.HCM. Tr.
620.
[5]. Victor Turner 1964. Biểu tượng
trong nghi lễ của người Ndembu. Trong sách “ Những vấn đề Nhân học tôn
giáo”. Nxb Đà Nẳng-Tạp chí Xưa & Nay. Tr.242.
[6 ] Theo Hùynh Tịnh Paulus Của 1895.
Đại Nam Quốc Âm Tự vị. Sài Gòn. Cầu an là cầu cho được an (tập I, tr.
111) ; Siêu độ là cứu chữa, làm cho tiêu rỗi ( tập II, tr. 297).
[7 ] Ban Trị sự Tỉnh giáo hội Phật giáo Quảng Nam –Đà Nẳng 1993. Nghi lễ Phật giáo. Quảng Nam –Đà Nẳng. Tr. 4.
[8 ]Đồng Thành 2001. Bước đầu tìm hiểu về âm nhạc Phật giáo. Nguyệt san Giác Ngộ số 59, tháng 2. Tr. 29.
[9 ]Trần Văn Khê.2001. Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam. Nguyệt san Giác ngộ số 59 tháng 2. Tr.23.
[10].Tán là ca ngợi công đức chư Phật
và ý nghĩa uyên thâm của con đường tu học; Chú (thần chú) là bài
dịch âm trực tiếp từ tiếng Phạn.
[11].Chơn Quang. 2002. Vài nhận xét
về sự thay đổi khuynh hướng trong nghi lễ và trong phương pháp tu tập
của đạo Phật Việt Nam.Trong sách Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia
Định-Sài Gòn Tp.Hồ Chí Minh. Tp.HCM. Nxb Tp.HCM. Tr. 364.
[12] Trần Hồng Liên 2000. Đạo Phật
trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ VN, từ thế kỷ 17 đến 1975. Hà Nội.
Nxb KHXH. Tái bản lần I. Tr.152.
[13] Xem thêm âm nhạc Phật giáo và
các loại pháp khí này trong: Trần Hồng Liên 1995. Đạo Phật trong cộng
đồng người Việt ở Nam bộ VN, từ thế kỷ 17 đến 1975. Hà Nội. Nxb KHXH.
Tr.145-152.
[14] Hùynh Tịnh Paulus Của. 1895. Đại Nam Quốc Âm Tự vị. Sài Gòn. Tập I, tr. 115.
[15] Tức Đổng Kim Lân
[16]Theo tư liệu do HT. Thích Huê Viên , trụ trì chùa Giác Viên –Q.11 Tp.HCM) cung cấp năm 1994.
[17] Thiền Hoà tử Huệ Chí. 1983. Sơ lược tiểu sử chùa Tổ đình Giác Lâm. Bản thảo.
[18]Theo sách Nghi lễ Phật giáo, tr.
7, thì Cầu an là mục đích sám hối tội lỗi để được thân tâm an lạc. Cầu
siêu là mục đích sám hối tội lỗi cho người quá vãng. Cầu cho thần thức
người được nhẹ nhàng thảnh thơi , siêu sanh về nơi thế giới tịnh lạc,
chóng thóat luân hồi.
[19] Đại Nam Thực lục chính biên. Tập 28. Hà Nội. Nxb KHXH 1973, tr.73-74.
[20] Chơn Quang. 2002. Sđd, tr, 364.
[21] HT. Trí Tâm. Tham luận của ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN. Ngày 10/1/2007. Đọc tại Hội thảo kỷ niệm 25 thành lập GHPGVN.
[22] Trần Văn Khê. 2001. Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam. Nguyệt san Giác ngộ số 59, tháng 2. Tr.27.
Tài liệu tham khảo:
-Ban Trị sự Tỉnh giáo hội Phật giáo Quảng Nam –Đà Nẵng 1993. Nghi lễ Phật giáo. Quảng Nam –Đà Nẳng.
-Đại Việt sử ký tòan thư. 1998. tập I. Hà Nội. Nxb KHXH.
-Đồng Thành 2001. Bước đầu tìm hiểu về âm nhạc Phật giáo. Nguyệt san GiácNgộ số 59,tháng 2
-E.B Tylor 2001. Văn hóa nguyên thủy. Hà Nội. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
-E. Adamson Hoebel. 2007. Nhaân chủng
học khoa học về con người. (Anthropology : The study of man) Lê Sơn, Lê
Trọng nghĩa, Phạm Khương dịch. Tp.HCM. Nxb Tổng hợp TP.HCM. Tr. 620.
-Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.2006. Những vấn đề Nhân học tôn giáo. Nxb Đà Nẳng-Tạp chí Xưa & Nay. Tr.242.
-Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn Tp.Hồ Chí Minh. Tp.HCM. Nxb Tp.HCM.
-Nguyễn Lang 1973. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập II, III. Sài Gòn: Nxb Lá Bối
-Nguyễn Thụy Loan 1997. Tín ngưỡng tôn giáo và ca nhạc cổ truyền. Văn hóa Nghệ thuật số 12.
-Nguyễn Thuyết Phong 2006.Tiến trình dân tộc hóa lễ nhạc Phật giáo tại Việt Nam. Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 23, tháng 12.
-Trần Văn Khê 1997. Âm nhạc Phật giáo. Giác Ngộ số 89, ngày 13/12/1997.
-Trần Văn Khê.2001. Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam. Nguyệt san Giác ngộ số 59, tháng 2.
-Vũ Tiến 2003. Phát huy đặc thù bản sắc nghi lễ Phật giáo. Giác Ngộ số 174, ngày 29/5/2003.
Nhận xét
Đăng nhận xét