Nghệ thuật tuồng đi đâu, về đâu?
Nghệ thuật tuồng đi đâu, về đâu?
Nghệ thuật sân khấu tuồng ở nước
ta những năm vừa qua gần như chìm khuất trong đời sống nghệ thuật. Khán
giả hiện nay đa phần tìm đến các chương trình, loại hình giải trí mới,
lạ... Điều này khiến cho nghệ thuật tuồng đứng trước nguy cơ mai một và
nếu chúng ta không có hành động để bảo tồn, lưu giữ tuồng thì bộ môn
nghệ thuật này chỉ còn trong ký ức.
Tuồng là nghệ thuật truyền thống ra đời
sớm ở nước ta (từ thế kỷ XV) và có nhiều giá trị đặc biệt. Giới chuyên
môn cho biết, tuồng còn gọi là hát bội, hát bộ và là bộ môn nghệ thuật
cổ điển và bác học bậc nhất Việt Nam. Khác với những loại hình nghệ
thuật truyền thống khác như xẩm, ca trù, cải lương... tuồng là loại văn
nghệ trình diễn cổ truyền, được hình thành trên cơ sở ca, vũ, nhạc và
các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân
tộc Việt Nam. Ðến cuối thế kỷ XVIII, tuồng đã phát triển một cách hoàn
chỉnh về mọi mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn.
Có nhiều giá trị nghệ thuật, lịch sử nhưng tuồng đang có dấu hiệu mai một |
Các tư liệu cổ có ghi lại sự phát triển
của tuồng trong chiều dài lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, thời kỳ thịnh
vượng của tuồng được đánh giá vào thế kỷ XVIII, XIX. Vào thời kỳ này
tuồng phát triển mạnh tại các tỉnh Bình Định, Quảng Nam và Gia Định, Mỹ
Tho ở miền Nam Việt Nam. Ở miền Bắc lúc này tuồng cũng khá phát triển,
diễn ra ở các tỉnh Bắc Ninh, Thanh Hóa và TP. Hà Nội. Tuồng bắt đầu được
xuất hiện tại các địa phương nông thôn, khi lễ hội hoặc các sự kiện tôn
giáo diễn ra thường có biểu diễn tuồng và họ biểu diễn trên các sân
khấu tạm thời dựng lên.
Tại Kinh đô Huế, đặc biệt là trong giai
đoạn dưới triều vua Tự Đức (từ 1847 đến 1883) đã xuất hiện nhiều nhà
viết tuồng nổi tiếng. Hầu hết họ là những người có một bề rộng về kiến
thức, bắt nguồn từ các nghiên cứu sâu rộng và có tài năng văn học như là
Nguyễn Bá Nghi, Nguyễn Gia Ngoạn, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Diệu, Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, Phan Bội Châu...
Trong số này, Đào Tấn - một nhà thơ, nhà
viết kịch, một đạo diễn sân khấu và là một nhà lý luận tài giỏi đã để
lại cho đời trên 40 vở tuồng nổi tiếng: Diễn Võ Đình, Trầm Hương Các,
Hoàng Phi Hổ Quá Giới Bài Quan, Hộ Sanh Đàn. Hầu hết, nội dung các vở
tuồng trong thời kỳ này đều mượn những câu chuyện có thật trong lịch sử
hoặc trong các tác phẩm văn học.
Có thể nói, trong các bộ môn nghệ thuật
truyền thống thì tuồng có những nét đặc sắc và chất riêng vốn có. Không
như các loại hình sân khấu khác, nội dung tác phẩm tuồng thường mang âm
hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại
nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái
riêng, giữa gia đình và Tổ quốc...
Ở nghệ thuật tuồng, với cách hoá trang
tạo diện mạo cho nhân vật hoàn toàn tượng trưng. Người diễn viên, ngoài
khả năng ca xướng, vũ đạo, diễn xuất, còn phải biết vẽ mặt mình, khi thủ
bất cứ vai nào. Nhờ những gương mặt được hoá trang, khán giả biết ngay
tâm lý, tính cách, giai cấp xã hội của nhân vật.
Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm và
những biến đổi xã hội, nghệ thuật sân khấu tuồng đã không còn được nhiều
người chú ý. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay các loại hình giải trí
mới du nhập, mở ra liên tục ở nước ta càng làm cho tuồng không còn đất
diễn. Một thực tế mà giới làm nghề nhận thấy hiện nay và những năm qua,
đó là sân khấu tuồng thiếu lớp người kế cận, các tài năng trẻ không mấy
mặn mà với nghệ thuật truyền thống và trong đó có tuồng.
Ngoài ra, theo NSND Lê Tiến Thọ, Chủ
tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, các đơn vị nghệ thuật tuồng hiện nay
chủ yếu chạy “sô” biểu diễn trong các lễ hội, nghi thức hành lễ với dàn
trống, dâng hương chứ ít có cơ hội biểu diễn một vở trọn vẹn. Khi tuồng
được đưa lên sân khấu các nhà hát thì khán giả rất ít, có thể đếm được
trên đầu ngón tay.
Nhà hát Tuồng Việt Nam cho biết, tại rạp
hát Hồng Hà (Hà Nội) nằm ngay khu phố cổ, các nghệ sĩ vẫn có các đêm
diễn trong tuần để phục vụ khách du lịch, với các trích đoạn tuồng cổ
đặc sắc: Ông già cõng vợ đi xem hội, Nhã nhạc cung đình Huế, Múa Lân mẹ
đẻ lân con, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo… nhưng chỉ là cho khách nước ngoài,
trong khi đó khán giả Việt dường như rất ít. Điều này báo động nghệ
thuật sân khấu tuồng nếu không được quan tâm, bảo tồn và lưu giữ, lớp
trẻ không tiếp nối thì việc tuồng trở thành cái bóng thời gian là điều
khó tránh khỏi.
NSND Lê Tiến Thọ cho rằng, để tuồng thực
sự có sức sống trọn vẹn thì chúng ta cần tiếp tục đưa nghệ thuật tuồng
vào các cơ sở đào tạo phổ thông, duy trì và gây dựng lớp khán giả cho
tuồng, phát triển hoạt động nghệ thuật tuồng không chuyên. Bên cạnh đó,
chúng ta cần có chính sách đãi ngộ đối với nghệ sĩ, diễn viên tuồng; đưa
nghệ thuật tuồng thành sản phẩm du lịch để bộ môn nghệ thuật này có
được chỗ đứng trong lòng khán giả và từ đây lan tỏa trong đời sống xã
hội.
Phạm Hoa
Nhận xét
Đăng nhận xét