Nhạc cung đình - theo dòng lịch sử
Đây là một bộ
môn âm nhạc vô cùng tinh vi mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa nhận thức
được đầy đủ giá trị của nó. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc cung
đình là một bộ môn duy nhất được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao
thăng trầm của các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn
lưu lại được một di sản đáng kể có thể sử dụng để nghiên cứu về nhiều
mặt: nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài
bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ sâu sắc.
Trong Khâm
định Đại Thanh Hội điển sử lệ (quyển 538, tờ 3b) xuất bản năm 1908 (thư
viện Hội châu Á: Socété Asiatique) có ghi rành rẽ chi tiết của dàn nhạc
cung đình, có mặt cùng một lúc với phái đoàn hữu nghị do vua Quang Trung
phái sang Trung Quốc, dưới thời vua Càn Long (1789), sử gia nhà Thanh
đã gọi là An Nam Quốc nhạc.
Năm 1802, dàn nhạc đổi tên là Việt Nam Quốc nhạc, vì vị vua Gia Long lên ngôi năm 1802, đăt tên nước là Việt Nam.
Ngược dòng
thời gian, đã có một dàn Đại nhạc cung đình đầu tiên xuất hiện trong sử
sách, có lẽ là vào đời nhà Trần, trong quyển "An Nam chí lược" của Lê
Tắc.
Đời Hậu Lê, có nhiều bộ sử ghi lại sự kiện năm Thiệu Bình thứ tư (
1437) dưới thời vua Lê Thái Tông (1434-1442), nhà vua giao cho Nguyễn
Trãi cùng với Lương Đăng có nhiệm vụ định ra Nhã nhạc cho triều đình.
Lương Đăng muốn sắp đặt dàn
Đường thượng chi nhạc giống như dàn nhạc Triều hạ yến hưởng chi nhạc của
nhà Minh và Đường Hạ chi nhạc giống như các dàn Đơn bệ đại nhạc vần
Giáo phường tỳ nữ nhạc của nhà Minh.
Theo Đại Việt
sử ký toàn thư và Ức trai thi tập thì Nguyễn Trãi đã dâng biểu cho nhà
vua từ chối nhiệm vụ được giao phó vì không tán thành quan điểm của Lương
Đăng. Bức thư của Nguyễn Trãi là bài học quý giá về thái độ của một
người nhạc sĩ chân chính đối với nền âm nhạc dân tộc trong đó có những
suy tư về âm nhạc rất sâu sắc như:
Hoà bình là
gốc của nhạc, thanh âm là căn của nhạc, hài hòa là tính chất của nhạc.
Thần mong rằng Bệ hạ thương dân để cho trong cả nước không có một âm
thanh nào nói lên sự bất bình hay buồn thảm của dân. Nếu dân còn buồn
thảm hay bất bình tức là Bệ hạ đã đánh mất một cái gốc của nhạc.
Ngoài ra còn
nhiều quyển sử khác có ghi đôi nét về Nhã cung đình qua các thời, như
Quốc triều thông lễ (triều vua Trần Thái Tông), Trần triều đại diễn
(triều vua Trần Dụ Tông), Lê triều hội điển, Lịch triều hiến chương loại
chí của Phan Huy Chú, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ...
Những bài
thuộc loại Cửu tấu, ngoài âm nhạc còn có lời ca được ghi đầy đủ trong
quyển Đại nam Hội điển sự lệ, như trong Miếu Triệu Tổ (miếu thờ Nguyễn
Kim), tên các bài ca phải có chữ Hòa, chẳng hạn Hàm hòa (trong lúc
nghinh thần), Gia hòa (lúc hiến lụa), Tương hòa (trong lúc sơ hiến, dâng
rượu lần đầu), Dự hòa (trong lúc á hiến, dâng rượu lần thứ nhì), Ninh
hòa (trong lúc chung hiến dâng rượu lần cuối cùng), Mỹ hòa (lúc dâng
trà). Túc hòa (lúc triệt hạ các lễ vật), An hòa (lúc tiễn thần), ưng hòa
(lúc mang đuốc đi, sau khi đốt sớ).
Trong Văn
miếu thờ Đức Khổng tử thì tên những bài hát phải có chữ Văn, trong loại
Yến nhạc tên bài hát phải có chữ Thành (dưới triều Gia Long), chữ Khánh
(thời Minh Mạng thứ 18) hay chữ Phúc (thời Minh Mạng thứ 21) v.v...
So với các bộ
môn khác, Nhạc cung đình có một giá trị nghệ thuật rất cao mà trước
tiên là vì triều đình có đủ quyền lực chính trị và khả năng tài chính để
quy tụ những nhạc sĩ cũng như nhạc công tài năng từ khắp nơi trong đất
nước, rồi tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho họ luyện tập kỹ thuật, trau
dồi nghệ thuật để trở thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp, sáng tác dồi
dào, biểu diễn tinh vi.
Các nhạc khí
được dùng trong Nhạc cung đình cũng được chế tạo rất kỹ, chạm cẩn khéo
léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân gian, lại có đầy đủ màu âm:
tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng,
tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Về độ cao
có tiếng trầm của dây đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo.
Nhìn chung,
dàn nhạc cũng đa dạng và quy mô hơn các dàn nhạc khác, chẳng những đa
dạng và quy mô mà còn rất đặc biệt trong sự phối hợp màu âm, không quan
tâm đến số lượng, mà chú trọng đến chất lượng. Khi hòa dàn thì không
nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác mà mỗi loại âm thanh đều có thể
phân biệt rõ ràng. Không có bộ môn nào huy động nhiều diễn viên và xiêm y phong phú như nhạc cung đình.
Nhạc cung đình còn đặc biệt ở điểm bao gồm tất cả các bộ môn âm nhạc khác từ lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu) cho đến nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và biểu diễn.
Theo dòng
lịch sử, không đi vào chi tiết, chỉ ghi những nét đại cương trong việc
tổ chức Nhạc cung đình qua các triều đại, thì Nhạc cung đình Việt Nam đã có một truyền thống rõ rệt.
Nhà Lý (thế kỷ thứ 11-13):
Tuy không có
ghi lại trong sách sử, nhưng xem bức chạm trên các tảng đá ở chân cột
chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chúng ta thấy có 10 nhạc công chia thành hai
nhóm. Những nhạc khí họ sử dụng bao gồm: Phách (hai miếng tre gõ vào
nhau), đàn gáo, ống sáo ngang, đàn tranh, ống sênh (loại khèn bè). Ngay
chính giữa là một hoa sen cách điệu hóa, tiếp theo là ống sênh, đàn tỳ
bà, ống tiêu (thổi dọc), nguyệt cầm, trống loại phong yêu cổ (một tay
cầm dùi, một tay vỗ như loại trống ghi năng của Chăm mà hình thắt đáy lưng ong).
Nhà Trần (thế kỷ thứ 13-15):
Theo An nam
chí lược của Lê Tắc thì Đại Nhạc dùng trong triều đình gồm kèn tất lật
(cùng loại với Pili Trung Quốc, Pili Triều Tiên và Hichiriki Nhật Bản),
tiểu quản (loại ống thổi dọc), tiểu bạt (chập chõa nhỏ) và phạn ổ (trống
cơm, có chú thêm "gốc từ nhạc khí Chiêm Thành, người Chăm) và một nhạc
khí gọi là "đại cấu". Về nhạc khí này, cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi tra
các Từ Nguyên, Từ Hải không thấy chữ "cấu" nên cũng không biết đó là
loại gì, vì thế khi thấy trong chữ "cấu" có bộ "cung" nên Giáo sư cho
rằng đó là một nhạc khí có cung kéo).
Tiểu nhạc
dùng trong dân dã, gồm có cầm, tranh, thất huyền, song huyền và tiêu
loại. Không rõ "cầm" có phải là gupin (có 7 dây tơ) của Trung Quốc
truyền sang hay loại đàn nào khác. Thất huyền đàn 7 dây mà guqin của
Trung Quốc cũng có 7 dây.
Nhà Lê (thế kỷ thứ 15 đến cuối thế kỷ 18):
Lương Đăng
phỏng theo nhạc nhà Minh lập ra hai dàn nhạc Đường thượng chi nhạc,
Đường hạ chi nhạc (mà chúng tôi đã nhắc đến trong đoạn đầu) nhưng không
được dùng lâu. Do các quan trong triều như Nguyễn Trãi, Thân Nhân Trung,
Đỗ Nhuận phản đối nên về sau hai dàn nhạc ấy được thay thế bằng hai đôi
Đồng Văn, Nhã nhạc và sau đó dần dần Giáo phường đã thay thế hai đội
này.
Trong Lê
triều hội điển và Lịch triều hiến chương loại chí đều có ghi về 8 thể
loại nhạc (Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường
triều nhạc, Đại Yến nhạc, Cung trung chi nhạc, Cứu nhật nguyệt giao
trùng nhạc) cùng nhiều điệu múa liên quan.
Nhà Nguyễn (đầu thế kỷ 19 đến năm 1945):
Tổ chức rất
chặt chẽ và được ghi trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản chữ Hán
quyển 99, và trong bản dịch tiếng Nôm in tại Thừa Thiên do Nhà Xuất bản
Thuận Hóa phát hành năm 1993, quyển 7, trang 68-118) đã ghi rõ về tổ
chức các dàn nhạc, gồm: Đại nhạc, Nhã nhạc, Huyền nhạc... Tế giao, Miếu
nhạc, Yến nhạc... Với những nhạc cụ khác nhau và cách thức ứng xử trình
diễn khác nhau.
Tóm lại, chỉ
mới nhìn qua, chưa đi vào bề sâu, mà giá trị của Nhạc cung đình đã quá
hiển nhiên. Mới đi qua một phần chiều dài của lịch sử, chưa đi rộng
trong không gian để đối chiếu nhạc cung đình Việt Nam với Yayue (Trung
Quốc), Gagaku (Nhật Bản), Ah Ak, Tang Ak. Hyang Ak (Triều Tien), mà
chúng ta cũng thấy lòng tràn đầy niềm hãnh diện.
Thời gian qua
chúng ta đã tìm hiểu Nhạc cung đình qua lịch sử cũng như đánh giá Nhạc
cung đình trong hiện tại. Nhưng quan trọng nhất là trước hết chúng ta
nên dựng lại một cách trung thực các dàn Đại Nhạc, Nhã nhạc như ngày
xưa, từ trang phục nhạc công đến phong cách biểu diễn, để giữ gìn một tư
liệu về lịch sử cho người ngày nay và mai sau biết Nhạc cung đình của
Việt Nam như thế nào, cũng giống như Nhật Bản ngày nay vẫn còn giữ lại
dàn Gagaku (Nhã nhạc) hệt như dàn nhạc thành lập từ thế kỷ thứ 10.
Nhiệm vụ của
chúng ta là một khi được thừa hưởng gia tài của ngàn xưa thì trước hết
giữ gìn nguyên vẹn di sản văn hóa đó. Nếu có những cải biên đổi mới,
cũng phải vô cùng thận trọng, vì nếu không hiểu thấu nhạc thời xưa mà đưa vào những yếu tố mới không phù hợp, có thể làm biến chất Nhạc cung đình.
Nếu phỏng
theo tinh thần của Nhạc cung đình mà tạo dàn nhạc đặt bản mới thì không
thể sử dụng những tên truyền thống như Đại nhạc hay Nhã nhạc phải đặt
tên mới để khỏi lầm lẫn Nhạc cung đình truyền thống với nhạc cải biên.
Một bức tranh, một bức tượng có giá trị nghệ thuật tự ngàn xưa thì không ai được phép vì muốn canh tân mà tự tiện vẽ thêm màu hay ra tay đục đẽo để phá hỏng giá trị một nghệ phẩm xưa. Nhạc cung đình cũng vậy.
Và, mong sao những nhà văn hóa hết sức thận trọng trong việc "cải biên, đổi mới" Nhạc cung đình Việt Nam.
(Theo Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế
Nhận xét
Đăng nhận xét