Trăm năm hồn cốt cải lương Nam bộ

Thứ Sáu, 31/8/2018 09:25

(ĐTTCO)- Năm 2018, cải lương đánh dấu sự xuất hiện tròn 100 năm trên mảnh đất Nam bộ. Ngoài vở diễn “Thầy Ba Đợi” tri ân người khai sáng bộ môn nghệ thuật này, bộ phim “Song Lang” cũng ra mắt công chúng để góp thêm tình yêu cho khán giả hôm nay đối với loại hình sân khấu độc đáo trong tâm thức cư dân mở đất.

“Thầy Ba Đợi” là ai mà được xem là tổ phụ của nghệ thuật cải lương? Thầy Ba Đợi tên thật Nguyễn Quang Đại, là nhạc sư trong triều đình nhà Nguyễn. Sau nhiều năm phục vụ trong cung vua, nhạc sư phiêu bạt vào phương Nam và mang thứ âm nhạc vốn không dành cho giới bình dân đến với bá tánh lao động trên kênh rạch sông nước.
Chính nhạc cung đình tương tác với nhạc dân gian đã hình thành một dòng nhạc được gọi là đờn ca tài tử. Điệu và hơi nhạc tài tử do nhạc sư Nguyễn Quang Đại sáng tạo ngẫu nhiên phù hợp với chất giọng người dân miệt vườn, đã mau chóng lan rộng khắp vùng đất Nam bộ. Từ nhạc tài tử phát triển thêm cara bộ, và loại hình ca hát theo kịch thoại phương Tây được ra đời, gọi là cải lương. 
Ngày 15-3-1918, tại rạp hát Mỹ Tho, vở “Kim Vân Kiều” công diễn gây sửng sốt cho giới thưởng ngoạn, chính thức đặt viên gạch đầu tiên cho nghệ thuật cải lương. Năm 1919, nhạc sĩ Cao Văn Lầu công bố bản “Dạ cổ hoài lang” tạo bước chuyển mạnh mẽ nữa của sân khấu biểu diễn. Từ đó, những gánh hát lần lượt ra đời. Có gánh hát quy mô với điểm diễn cố định, có gánh hát chỉ là cái ghe bập bềnh trôi theo mùa nước nổi, đưa cải lương vào từng thôn xóm sau rặng bần, rặng đước. 
Như khơi đúng mạch nguồn văn hóa của Nam bộ, cải lương đạt được nhiều kỳ tích trên hành trình chinh phục người xem. Những nghệ sĩ cải lương như Phùng Há hoặc Năm Phỉ vụt sáng như những ngôi sao thật sự. Đặc biệt, năm 1931 vở cải lương “Xử án Bàng quý phi” của đoàn Phước Cương đã mang chuông đi đánh xứ người tận Paris. Tại Pháp, vở cải lương này được đổi tên là La Favorite (Sủng phi). Hàng chục suất diễn tại kinh đô ánh sáng của châu Âu đã khiến công chúng phương Tây ngạc nhiên về loại hình nghệ thuật độc đáo của xứ An Nam.
Báo L’Intransigeant số ra ngày 25-6-1931 mô tả tác phẩm của đoàn Phước Cương trình diễn nhiều ngày trong Khu triển lãm Đông Dương được được khán giả Pháp ủng hộ nhiệt liệt. Nhà phê bình nổi tiếng nước Pháp lúc ấy là André Delacour đã viết về vở “Xử án Bàng quý phi” với sự sửng sốt: “Các diễn viên rõ ràng là một chủng tộc khác, ngôn ngữ họ chúng ta không hiểu được… nhưng trang trí sân khấu, phân cảnh bố cục và trang phục của họ làm chúng tôi bất ngờ, dẫn dắt chúng ta có cái nhìn vừa chính xác vừa thơ mộng của miền Viễn Đông.
Trăm năm hồn cốt cải lương Nam bộ ảnh 1Vở diễn “Thầy Ba Đợi”. 
Chúng ta cũng không thể không thấy mình đang hiện diện trước những con người là các anh em gần gũi, vì chúng ta đang thấy họ đứng trước mặt, họ đang yêu thương và đau khổ giống chúng ta…. Chúng ta nhận ra sự thinh lặng của nghệ thuật mới mẻ…”.
Cái hay của cải lương là sự truyền đạt những ý niệm về cuộc sống xung quanh một cách nhẹ nhàng và sâu lắng. Tinh thần tranh đấu của người Việt được miêu tả rõ ràng trong vở cải lương “Tiếng hò sông Hậu” hoặc “Tiếng sóng Rạch Gầm”; tội ác của xã hội phong kiến thực dân được vạch trần trong “Đời cô Lựu” hoặc “Tô Ánh Nguyệt”; thói hư tật xấu của người đời được nhắc nhở và mỉa mai trong “Ngao sò ốc hến”, còn sức sống bền bỉ của sự lương thiện được đề cao trong “Bên cầu dệt lụa”.
Vì vậy, đến thập niên 60 của thế kỷ 20, cải lương được ưa chuộng bậc nhất trong đời sống văn hóa Nam bộ. Giải thưởng Thanh Tâm được hình thành để vinh danh những ngôi sao cải lương như Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Thành Được, Hùng Cường… Rất nhiều ngôi sao cải lương giàu có từ nghề hát. 
Sau năm 1974, cải lương vẫn được yêu thích. Không tính những đơn vị quy mô như Nhà hát cải lương Trung ương hoặc Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang, có lúc khoảng 40 đoàn cải lương đăng ký hoạt động và lưu diễn khắp 3 miền. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21 cải lương bắt đầu khó khăn khi phải cạnh tranh với những loại hình nghệ thuật trẻ trung, sôi động hơn.
Ngoài yếu tố khách quan, hạn chế của cải lương hiện nay là sự xa rời, hoặc làm sai lệch cái nền truyền thống sân khấu. Mặt khác, càng ngày càng thiếu tác giả cải lương dẫn đến thiếu vắng kịch bản cải lương, buộc các đơn vị nghệ thuật phải lấy kịch bản kịch nói chuyển thể thành kịch bản cải lương. Không ít đạo diễn dàn dựng cho sân khấu cải lương là đạo diễn kịch nói, nhiều khi làm mất không khí đặc thù của nghệ thuật cải lương.
Diễn viên trẻ tuy được đào tạo chính quy ở nhà trường nhưng phần lớn khi ra trường chưa được thuần thục các bài bản cải lương… Quan trọng hơn, cải lương không được đầu tư những vở hoành tráng để thu hút khán giả khó tính khác xưa. 
Nhà biên kịch, đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc bằng kinh nghiệm nhiều năm gắn bó với cải lương, phân tích: “Hát cải lương, nhất là với những đào kép chánh, việc đầu tiên là phải có giọng ca hay. Khi ngồi so sánh những giọng ca từ xưa cho đến nay, ai cũng tấm tắc khen sao hồi trước, mấy anh chị ca, giọng nào ra giọng đó, chân phương, không màu mè kiểu cách mà như buông thả từng niềm vui, nỗi buồn chạm thấu tâm can người nghe, còn giờ các em nhỏ ca sao cứ trôi tuồn tuột, không đọng lại chút gì. 
Cải lương trăm năm, thăng trầm cùng buồn vui cuộc đời, lưu lại trong lòng công chúng nhiều tên tuổi như Minh Vương, Ngọc Giàu, Phượng Liên, Minh Phụng, Thanh Tòng, Diệp Lang, Hoài Thanh, Minh Cảnh… Phục hưng giá trị cải lương không phải một sớm một chiều. Thế nhưng, đưa cải lương vào học đường cũng là một giải pháp để thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau thêm hiểu biết và thêm yêu mến cải lương.
Tâm Huyền

Nhận xét

Bài phổ biến

Tiểu Sử Tấn Giao

Tiểu Sử Hữu Lợi

Tiểu Sử Vương Linh

Tiểu Sử Hà Mỹ Xuân

Tiểu Sử Ngọc Bích

Té ngã vỡ mạch máu não, nghệ sĩ Thanh Thế nguy kịch

Tiểu Sử Ngân Tuấn

Tiểu Sử Xuân Yến

Tiểu Sử Kép Độc Trường Xuân

Phân biệt đờn ca tài tử với cải lương