Cải lương ở Hà Nội xưa
Nghệ thuật tuồng và chèo hiện diện trong đời sống xã hội ở Thăng Long -
Hà Nội qua nhiều thế kỷ, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với
người dân.
Thế nhưng khi nghệ thuật cải lương ra đời năm 1918 ở phía nam thì
thói quen thưởng thức nghệ thuật của người Hà Nội dần thay đổi.
Cải lương Sài Gòn đổ bộ ra Hà Nội
Đầu những năm 1920, nhiều thanh niên Hà Nội yêu thích cải lương đã
mua các đĩa hát do hãng thu âm Pathé và Béka sản xuất để học hát cải
lương. Nhiều nhóm cải lương nghiệp dư ra đời, trong đó đáng kể là nhóm
Tài tử Đồng ấu và Tài tử phố Hàng Giấy. Năm 1926, Hà Nội vẫn chưa có cải
lương mang tính chuyên nghiệp.
Năm 1927, Nghĩa Hiệp ban, gánh cải lương đầu tiên ở Sài Gòn ra Hà
Nội, biểu diễn ở rạp Quảng Lạc (nay là số 8 phố Tạ Hiện, do Nhà hát Kịch
Hà Nội quản lý). Trong 4 đêm diễn ở rạp này, khán giả chen chúc mua vé.
Chủ rạp Quảng Lạc thấy đây là cơ hội để thành lập gánh hát của riêng
mình nên gây khó khăn bằng cách tăng tiền thuê rạp, đồng thời bí mật dụ
dỗ, mua chuộc một số đào kép chính. Chủ gánh Nguyễn Văn Đẫu bất bình
liền sang thuê rạp Thăng Long (phố Hàng Bạc, nay là Nhà hát Cải lương Hà
Nội) diễn luôn 7 tối liền. Thấy diễn cải lương đông khách nên chủ rạp
chiều chuộng ông bầu Nguyễn Văn Đẫu bằng cách đổi tên Thăng Long thành
Cải lương hí viện rồi Tố Như. Ông chủ rạp Quảng Lạc vẫn không từ bỏ tham
vọng bằng cách tiếp tục lôi kéo đào kép và đã thành công khi Quảng Lạc
là rạp dừng chân thường xuyên của các gánh hát từ nam ra.
Năm 1932, gánh cải lương Phước Cương đi hát ở Paris về Hà Nội đã
thuê rạp Philharmonique (nay là Nhà hát Múa rối Thăng Long, phố Đinh
Tiên Hoàng) để diễn. Người ta đổ xô mua vé xem cô Năm Phỉ “mặc váy nhảy
valse” đóng vai Bàng Quý Phi. Vì diễn ở Hà Nội khán giả luôn kín rạp nên
nhiều gánh cải lương ở Sài Gòn năm nào cũng lưu diễn ở Hà Nội.
tin liên quan
Giữa xứ người, nghe câu hát cải lương
Chị bạn thân gọi điện mượn ít đĩa cải lương. Tôi hơi bất ngờ, bởi chị có bao giờ nghe đâu mà mượn?
Hình thành cải lương Hà Nội
Đầu những năm 1930, nhiều thanh niên Hà Nội có giọng và mê mẩn nghệ
thuật này đã khăn gói vào Sài Gòn theo các gánh học hát. Một trong
những người đầu tiên trở thành diễn viên chuyên nghiệp là Sỹ Tiến. Ông
là diễn viên người Bắc duy nhất của gánh Tân Hí ban ở Sài Gòn.
Biết rạp chuyên diễn chèo Sán Nhiên Đài của ông bầu Trương Văn Tố
cũng có ý thành lập gánh cải lương nên ông Đẫu đã nhường lại một số đào
kép cho Sán Nhiên Đài và Nghĩa Hiệp ban tan rã. Để tiết kiệm chi phí và
có ngay diễn viên tham gia vào các vở, chủ rạp đã nhờ chính các diễn
viên, nhạc công của Tân Hí ban truyền nghề cho người có thanh có sắc ở
Hà Nội muốn theo nghiệp này. Cả Sán Nhiên Đài và Quảng Lạc đều có diễn
viên miền Nam diễn chung với diễn viên Bắc mà hát không hề chênh. Đó là
những bước đi đầu tiên của cải lương Bắc ở Hà Nội. Năm 1940, Sán Nhiên
Đài trở thành nơi diễn chính của Nhật Tân ban, gánh hát này do các ông
Doãn Bá Chính, Trần Quang Cầu lập khoảng năm 1935. Diễn tại rạp Quảng
Lạc có Quốc Hoa ban với những diễn viên: Tư Ban, Bá Quyền, Hải Tý, Bích
Lộc, Phước Thọ, Tuấn Sửu, Bích Hợp, Mộng Dần, Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích
Được... Đến năm 1943, Hà Nội đã có 16 gánh hát cải lương lớn nhỏ.
Đầu năm 1947, Pháp tái chiếm Hà Nội, dân phố tản cư về các vùng
quê, nhiều nghệ sĩ cũng theo gia đình, một số gánh hát về diễn ở nông
thôn cầm cự chờ ngày trở lại nên các rạp phải đóng cửa. Đầu năm 1948,
dân lác đác trở về, Hà Nội dần đông đúc và các rạp lại sáng đèn.
Gánh cải lương Nhật Tân ban vẫn diễn ở Quảng Lạc, Tố Như ban diễn ở
Văn Lang, Đại Quốc Hoa diễn ở rạp Olympia (nay là rạp Hồng Hà ở phố
Hàng Da), ban Ái Liên diễn ở rạp Hiệp Thành, gánh cải lương Đan Thanh
diễn ở rạp Lạc Thành (rạp này sau chuyển thành rạp chiếu bóng Bạch Mai).
Các vở chủ yếu lấy tích cổ của Trung Hoa và VN.
Hầu hết các vở cải lương thời đó đều khai thác đề tài có nội dung
éo le, bi thảm, khốn khổ của đàn bà nên thu hút rất đông các bà, các cô
đi xem. Họ xem để chia sẻ và cảm thông với những số phận như họ. Có loại
khán giả rất đắm đuối với cải lương là các cô làm nghề hát cô đầu, và
cải lương sinh ra cứ như dành riêng cho họ. Vì thế, chỗ nào có nhiều nhà
hát cô đầu, nhà săm thế nào cũng có rạp cải lương. Đối diện ngõ Vạn
Thái, ngõ nổi tiếng về hát cô đầu ở phố Bạch Mai, có rạp Lý Vịt, thực ra
tên rạp là Lạc Thành nhưng vì ông chủ họ Thành này là lý trưởng lại có
lò ấp vịt giống nên người ta mới gọi như vậy. Vào năm 1938, xuất hiện
một rạp cải lương nằm ở cuối phố Đại La gần ngã tư Trung Hiền (nay là
Ngã tư Mơ) vì khu vực này có vài chục nhà hát với hơn 200 cô đầu. Còn
gần Cầu Mới (Ngã tư Sở), năm 1941 xuất hiện rạp Thiên Xuân Đài, chuyên
diễn cải lương, rạp đóng cửa năm 1946 vì chiến tranh.
Đến năm 1951 thì các vở mô phỏng theo phim Mỹ như: Sóng nhạc hương
tình, Tình Vương ý nhạc nên người ta gọi các vở này là La Mã diễm huyền.
Hai đoàn Kim Phụng và Kim Chung khá đông khách. Năm 1954, nhiều diễn
viên và chủ gánh di cư vào nam. Nghệ sĩ Mộng Dần ở đoàn Kim Chung không
di cư, ông đã vận động một số diễn viên và tự bảo ban nhau tiếp tục hát
nên được gọi là Kim Chung mới. Năm 1957 Kim Chung mới đổi thành Chuông
Vàng, còn Kim Phụng vẫn giữ nguyên tên và cả hai trở thành các đoàn cải
lương quốc doanh. Sau năm 1954, Tuấn Sửu, Mộng Dần, Lệ Thanh, Ngọc Dư...
tiếp tục hát và trở thành các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng.
Hát chèo theo giai điệu cải lương
Rạp Sán Nhiên Đài (nay là Trung tâm giao lưu văn hóa
phố cổ, số 50 phố Đào Duy Từ) chuyên diễn chèo cổ nhưng do thưa khách
nên chủ phải sang rạp cho người khác. Năm 1925, trùm chèo Nguyễn Đình
Nghị thâu tóm rạp thì mọi chuyện bắt đầu khác. Nguyễn Đình Nghị thay đổi
phong cách diễn, có thêm phông màn, cảnh trí đồng thời soạn lại các
tích cổ thành vở lớp lang và gọi là chèo văn minh. Khán giả trở lại xem
chèo nhưng rạp cũng chỉ đông được vài năm rồi vắng vẻ và một lần nữa ông
Nghị lại chuyển sang chèo cải lương, nghĩa là hát chèo theo giai điệu
của cải lương. Sự đổi thay này khiến Sán Nhiên Đài trở thành tâm điểm
của khán giả yêu thích chèo - cải lương.
Nhận xét
Đăng nhận xét